![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Ưu đãi trong kinh tế chuyển đổi: Trường hợp dệt - may | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Một nhận định thường gặp đó là khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn là gánh nặng cho nền kinh tế ở Việt Nam. Tuy vậy, một báo cáo mới lại đặt câu hỏi về tính cần thiết của sự can thiệp của nhà nước trong một nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi. Một báo cáo mới đăng trên số ra tháng Chín của tạp chí Norwegian Journal of Geography đã khảo sát vai trò và đóng góp của những ưu đãi dành cho các doanh nghiệp nhà nước trong sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may ở Việt Nam. Bài viết chủ yếu nhận định về nội tình ngành dệt - may Việt Nam trong thập niên 1990, và hiện tại, tình hình chắc chắn có những thay đổi. Tuy vậy, một số kết luận của bài viết có thể cung cấp thêm thông tin cho cuộc tranh luận về vai trò can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế. Hiệu năng nhà nước Khi ảnh hưởng của kinh tế học ‘tân tự do’ (neoliberal economics) trong chính sách và tư duy kinh tế tăng lên trong thập niên 1980, vai trò của các chính sách can thiệp nhà nước bị chỉ trích nặng nề. Ngân hàng thế giới khuyến nghị và đòi hỏi việc tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, xem đó là một phần của sự chuyển đổi từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường. Nhiều nhà kinh tế theo xu hướng tự do cổ vũ việc tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước bởi vì cơ chế thị trường sẽ khiến doanh nghiệp quốc doanh đối diện với sức ép cạnh tranh và buộc họ phải làm ra các sản phẩm tốt hơn và giảm chi phí sản xuất để tồn tại trên thị trường. Việc nhà nước ưu đãi cho các công ty quốc doanh sẽ làm biến dạng các điều kiện kinh doanh trong thực tế, và bóp nghẹt sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Bà Hege Knutsen, giáo sư ĐH Oslo, nói khảo sát tại Việt Nam trong thập niên 1990 cho ra kết quả hơi khác: "Quan điểm kinh tế tự do cho rằng cần tư nhân hóa khu vực quốc doanh. Nói một cách ngắn gọn, kinh tế học tự do xem vai trò can thiệp nhà nước là tiêu cực, nhưng nghiên cứu của chúng tôi lại ủng hộ vai trò của nhà nước." Dệt - May tại Việt Nam Tại Việt Nam, ngành dệt-may đã trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam từ thập niên 1990, và có tốc độ tăng trưởng cao.
Nếu nhìn vào hình thức sở hữu trong ngành này, người ta thấy ưu thế của khu vực quốc doanh đã giảm đi theo thời gian. Năm 1989, khu vực quốc doanh chiếm 70% tổng sản lượng ngành dệt may. 10 năm sau (1999), quốc doanh chỉ còn chiếm 42% tổng sản lượng, so với 30% của khu vực tư doanh và 29% của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy vậy, khu vực quốc doanh vẫn chiếm ưu thế. Hai câu hỏi đặt ra là vì sao trong thời gian qua doanh nghiệp nhà nước chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp dệt may? Và doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp thế nào cho nền kinh tế quốc dân? Câu trả lời mà hai tác giả đưa ra là ưu thế của doanh nghiệp dệt may nhà nước ̣có được nhờ ba sự ưu đãi rót xuống từ cơ quan nhà nước: chính sách đất đai, tín dụng và quota. Chính sách đất đai Ở Việt Nam, Hiến pháp quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước là người chủ đại diện giữ quyền sở hữu. Khác với các công ty tư nhân và nước ngoài, ban đầu đất được cấp cho các doanh nghiệp nhà nước. Điều này thay đổi vào năm 1995 khi cơ chế cho thuê đất được ban hành. Tuy nhiên, theo báo cáo, trong những năm 1990, để có được quyền sử dụng đất, các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài ở Việt Nam vẫn phải trả nhiều tiền hơn doanh nghiệp nhà nước, và thủ tục giao đất cho các doanh nghiệp nhà nước vẫn dễ dàng hơn so với doanh nghiệp tư nhân. Tín dụng và Quota Khảo sát cho thấy tỉ lệ từ chối cho vay vốn của ngân hàng đối với doanh nghiệp tư nhân cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước, tuy tỉ lệ rủi ro khi cho doanh nghiệp nhà nước vay vốn thường cao hơn so với cho tư nhân vay. Mặc dù thời gian gần đây, các doanh nghiệp tư nhân đã dễ dàng hơn trong việc vay vốn ngân hàng, nhưng việc tìm được vốn thế chấp cho ngân hàng chấp nhận cho vay vẫn là một vấn đề trên thực tế. Về vấn đề cấp quota dệt may, báo cáo cho hay cho đến tận đầu những năm 2000, các doanh nghiệp tư nhân vẫn gặp khó khăn trong việc xin quota xuất khẩu và thường phải mua lại quota từ các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn nước ngoài vẫn vấp phải sự phân biệt trong việc phân bổ quota. Khi được hưởng những ưu đãi như thế, không ngạc nhiên khi thấy rằng các công ty nhà nước vẫn chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp dệt – may. Trong mắt những khách hàng nước ngoài, theo bà Hege Knutsen, các doanh nghiệp nhà nước nói chung không bị xem là kém hiệu quả, mà là những đối tác kinh doanh khá hấp dẫn. "Chúng tôi thấy rằng có những doanh nghiệp quốc doanh trong ngành dệt may Việt Nam đóng vai trò trong việc tiếp cận thị trường nước ngoài. Nguyên nhân là vì trong mắt của khách hàng, các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam làm việc hiệu quả." Trong mắt khách hàng nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước cũng sở hữu trình độ công nghệ cao hơn doanh nghiệp tư nhân. Việc khách hàng nước ngoài ngày càng chú ý đến điều kiện lao động cũng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước trong ngành dệt – may. Lý do là vì các công ty nhà nước có tiếng là thường trả lương cao hơn và có điều kiện làm việc tốt hơn các công ty tư nhân. Liên hệ chặt chẽ với các cơ quan nhà nước cũng là một thuận lợi vì khi gặp vấn đề, các công ty nhà nước có thể tìm cách giải quyết thông qua những mối quan hệ cá nhân. Khi xét sự ưu thế của DNNN trong ngành dệt may Việt Nam, diễn biến đi ngược với quan niệm cho rằng tư nhân hóa đóng vai trò thiết yếu cho năng lực cạnh tranh quốc tế. Ông Nguyễn Mạnh Cường, giảng viên ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội, nói trong hoàn cảnh chuyển đổi kinh tế tại Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước có một vai trò tích cực cho sự phát triển của ngành may mặc. "Ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, khu vực nhà nước có một sự cởi trói nhất định nên đạt được sự năng động và hiệu quả nhất định." Nhưng về lâu dài, sự phát triển này còn đóng góp ở mức độ nào cho nền kinh tế sẽ là một câu hỏi khác. Tương lai Trong hoàn cảnh không nhận được ưu đãi như doanh nghiệp nhà nước, sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong ngành may mặc thời gian qua có thể gọi là ngạc nhiên. Báo cáo nói rằng mối quan hệ thân cận với nhà nước hoặc các quan chức là yếu tố giúp cho một số doanh nghiệp tư nhân hoạt động tốt và ít gặp vấn đề về đất đai, tín dụng, quota trong thời gian qua. Ngay cả ưu đãi dành cho các doanh nghiệp nhà nước cũng còn phụ thuộc nhiều phần vào mối quan hệ khi mà giữa các công ty nhà nước đã diễn ra sự cạnh tranh để có vốn và hỗ trợ từ nhà nước. Đây là một mâu thuẫn trong sự chuyển đổi sang một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, bởi vì cũng chính mối liên hệ chặt chẽ với nhà nước sẽ có khuynh hướng bảo vệ các doanh nghiệp nhà nước yếu kém và làm chậm lại sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân hoạt động tốt. ................................................................................................................ Bài viết "Preferential treatment in a transition economy: the case of state-owned enterprises in the textile and garment industry in Vietnam" của Hege Knutsen và Nguyễn Mạnh Cường in trong số tháng Chín của Norwegian Journal of Geography. |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||