Lê Quỳnh
BBC Việt ngữ, Bangkok
Thời gian qua đã xảy ra một loạt các vụ đình công tại các nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Vụ mới nhất là ở tỉnh Đồng Nai hôm 14.03 với gần 400 công nhân Công ty Ulhwa, một doanh nghiệp vốn Hàn Quốc chuyên về may mặc.
Trước đó ở Bình Dương có chừng 4000 công nhân ở một công ty Đài Loan đã đình công với lý do công ty phân bổ thu nhập không đồng đều cho người lao động.
Đòi tăng lương
Truyền thông nhà nước đưa tin thì công nhân trong vụ ở Bình Dương nói công ty đã gây thiệt thòi cho người lao động khi áp đặt mức lương tối thiểu bằng nhau cho cả người mới vào làm và người lao động đã có thâm niên hơn một năm.
Mới năm ngoái, một làn sóng đình công đòi tăng lương và cải thiện chế độ lao động đã lan đi khắp nhiều địa phương.
Sau đó, chính phủ đồng ý nâng lương tối thiểu cho lao động trong khu vực nước ngoài nhằm ngăn chặn chiều hướng đình công lan rộng.
Kể từ khi có chính sách "Đổi Mới" năm 1986, ngày càng có nhiều công ty nước ngoài đổ vào Việt Nam. Với ưu đãi đầu tư và giá nhân công rẻ, Việt Nam đã trở thành mảnh đất màu mỡ cho nhiều công ty.
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005 lên đến 110 tỉ đôla.
Nan giải
Tuy nhiên, số lượng đình công lại ngày càng phổ biến, với hơn 1300 cuộc đình công xảy ra từ 10 năm qua.
Hiện tượng tăng vọt các cuộc đình công đòi bảo vệ quyền lợi đã để lộ những vấn đề của một quốc gia đang phát triển đáng kể, nhưng đời sống của người lao động lại chưa chắc đã tăng cùng với sự tăng trưởng kinh tế.
Vào đầu tháng Ba, khi họp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thừa nhận cần có chính sách tốt hơn cho người lao động.
“Người lao động được hưởng cái gì từ quá trình tăng trưởng? Chúng ta phải bảo đảm điều này thì mới tăng trưởng bền vững được. Chứ nếu không, kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp lợi nhuận cao, nhưng người lao động có được trả lương đúng giá trị hay không?”
Tuy nhiên, làm sao cân bằng quyền lợi của người lao động và các nhà đầu tư đang là một thách thức cho Việt Nam.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã cảnh báo có xung đột nảy sinh từ những mâu thuẫn căn bản của việc người lao động mong muốn tăng lương, có điều kiện làm việc tốt hơn, trong khi chủ lao động lại cần tăng năng suất và giảm chi phí trong môi trường cạnh tranh của kinh tế toàn cầu.
ILO nói những xung đột này sẽ càng gay gắt khi mà Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Cần nói rằng vào năm 2006, khi làn sóng đình công xảy ra, Phòng Thương mại châu Âu và Hoa Kỳ, cùng sáu Phòng Thương mại các nước châu Á đã gửi thư cho Thủ tướng Việt Nam bày tỏ lo ngại về cách thức diễn ra và cách giải quyết các vụ đình công.
Ông Christian Schaefer, luật sư của công ty PricewaterhouseCoopers tại Việt Nam, nói với BBC rằng các nhà đầu tư nước ngoài chưa hài lòng với cách xử lý các tranh chấp lao động tập thể và đình công.
“Vấn đề chính ở Việt Nam là luật về đình công chưa thật sự phát triển. Đã có khung pháp lý và Luật Lao động đã được sửa đổi hồi năm ngoái. Nhưng nó vẫn chưa hoàn hảo."
Theo luật sư Schaefer, một vấn đề khác là trên thực tế, nhiều cuộc đình công không tuân thủ các điều kiện ghi trong luật.
"Cơ chế và sự cân bằng mà pháp luật muốn thiết lập thì trở nên không có giá trị, vì nhiều người lao động cứ đơn phương bỏ việc và đình công. Và dường như không có trừng phạt nào đối với những người lao động khi tham gia đình công trái luật."
Nhiều chuyên gia nhận định khi đầu tư nước ngoài gia tăng, thì áp lực đòi tăng lương cũng sẽ tăng cao hơn.
Tại một số Khu Chế xuất lại đang khan hiếm lao động, và điều này làm người công nhân càng dễ có thêm yêu sách.
Làm thế nào để không xảy ra thêm các cuộc đình công trong tương lai đang là bài toán khó cho những nhà quản lý ở Việt Nam.