Một nhà nghiên cứu xã hội ở Anh nói rằng cách gọi “cải tổ ở phía Nam, bảo thủ ở phía Bắc” không giúp người ta hiểu đầy đủ về tình hình kinh tế và xã hội tại Việt Nam. Ông còn cho rằng giới doanh nhân trẻ ở Việt Nam nghĩ không khác những người già bao nhiêu cả.
Trong các tài liệu nước ngoài viết về Việt Nam, một xu hướng chung là nhấn mạnh thành phố Hồ Chí Minh như đầu tàu “cải cách” đối lập với xu hướng “cứng rắn” ngoài Hà Nội.
Đầu năm 2003, một quyển sách mới được xuất bản nói về vấn đề cải cách và những thay đổi trong đời sống kinh tế chính trị tại thành phố Hồ Chí Minh trong thập niên 90.
Tác giả quyển sách là tiến sĩ Martin Gainsborough, hiện đang dạy tại khoa Kinh tế chính trị và Quan hệ quốc tế, thuộc đại học Warwick, Anh Quốc.
Quyển sách có tên Changing Political Economy of Vietnam: The case of Ho Chi Minh City, tạm dịch Thay đổi trong nền kinh tế chính trị tại Việt Nam: Trường hợp của thành phố Hồ Chí Minh.
Đài BBC đã hỏi ông là vì sao ông cho rằng cách dùng cặp đối lập “đổi mới” và “bảo thủ”để gắn cho một số nhân vật hay vùng đất ở Việt Nam là không chính xác.
TS Gainsborough: Theo tôi, danh từ “người theo chủ trương đổi mới” ngụ ý một số điều nhất định. Một trong đó là sự ủng hộ dành cho thị trường tự do. Theo tôi, tại Việt Nam trong mười, hai mươi lăm năm qua, nền kinh tế thị trường quả thật phát triển nhưng nó bị hạn chế nhiều, đó là một thị trường mà các cơ quan nhà nước hoặc những người có quan hệ với chính quyền đã hưởng lợi vì những hạn chế đặt ra cho cách vận hành của thị trường.
Ngay tại thành phố Hồ Chí Minh, một nơi thường được gọi là ngôi nhà của đổi mới, thì những người thành công trong kinh doanh tại đây cũng không dành nhiều sự ủng hộ hơn cho một thị trường tự do. Họ muốn có một thị trường hạn chế mà có lợi cho họ.
Mặt khác, khi người ta nghĩ về từ “đổi mới”, ta thường nghĩ tới sự phát triển của khu vực tư nhân tại Việt Nam. Dựa trên thời gian tôi sống tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi đặc biệt được gắn với khu vực tư nhân, thì tôi không thấy sự trỗi dậy thật sự của khu vực này. Hiện tại tình hình đã thay đổi một chút, nhưng theo tôi trong thập niên 90, những gì ta chứng kiến là sự hoạt động rất mạnh của các doanh nghiệp nhà nước.
Một điều nữa tôi muốn đề cập tới vấn đề “đổi mới”, đó là, trong những tài liệu nước ngoài viết về Việt Nam, “đổi mới” thường được hiểu là có sự xuất hiện của những tư duy quản lý kinh tế mới. Đôi khi, người ta cũng xem nó như cuộc tranh luận giữa những người cải cách và những người bảo thủ.
Tuy vậy, theo tôi, thường thì không thấy các chính trị gia tranh luận về các tư tưởng khác biệt xung quanh đổi mới, mà thường họ chủ yếu bàn về các quyền lợi, hay cách hoạt động của một doanh nghiệp cụ thể nào đó, chứ không phải các quan điểm khác nhau về cách quản lý nền kinh tế.
Tuy thế, chúng ta vẫn có thể đọc rất nhiều bài phát biểu, bài viết kêu gọi đổi mới tư duy để đáp ứng tình hình phát triển của Việt Nam?
TS Gainsborough: Dĩ nhiên, trong một bài phát biểu, một chính khách có thể đề cập các biện pháp mà ông ấy hoặc chính phủ muốn thực hiện. Nhưng nếu ta quan sát hoạt động hàng ngày của các cơ quan hoặc doanh nghiệp nhà nước và tự hỏi họ quan tâm đến điều gì, thì không thấy họ tranh luận những chuyện như, chẳng hạn, chúng ta cần quản lý thị trường đất đai như mô hình Thụy Sĩ hay Pháp – tức là những vấn đề mang tính lý thuyết tổng thể.
Chủ yếu hàng ngày họ lo những chuyện như vấn đề cạnh tranh giữa các cơ quan nhà nước, chuyện cấp phép, giấy tờ. Theo tôi, chính những tranh chấp trong môi trường kinh doanh như vậy, những chuyện liên quan tiền bạc, cạnh tranh giữa các cơ quan, mới là điều có thật, là điều mà cơ quan, doanh nghiệp nhà nước quan tâm.
Nói về sự cạnh tranh, thì theo ông điều này chủ yếu diễn ra giữa các cơ quan địa phương hay giữa trung ương và địa phương?
TS Gainsborough: Tôi nghĩ mô tả vừa rồi của tôi chủ yếu đề cập đến quan hệ giữa các cơ quan nhà nước địa phương. Nhưng nếu nói về quan hệ giữa trung ương và địa phương, thì theo tôi cũng không thể cường điệu sự khác nhau giữa hai phía.
Chẳng hạn, nếu anh là một quan chức ở thành phố Hồ Chí Minh và hi vọng một ngày nào đó có cơ hội làm việc tại trung ương, thì cách ứng xử của anh cũng khác với một quan chức cấp quận thỏa mãn với hoạt động ở địa bàn của mình và không có ý ra Hà Nội. Trong trường hợp này, ông ta có thể sẵn sàng cưỡng lại một số quyết định của trung ương.
Nhưng mặt khác, tôi nghĩ rằng ảnh hưởng của cấp trung ương tại một nơi như thành phố Hồ Chí Minh vẫn rất mạnh và chính quyền địa phương phải rất thận trọng khi họ muốn tỏ ra công khai bất đồng với chính sách của trung ương. Không giống như một số nhà quan sát cho rằng một địa phương như thành phố Hồ Chí Minh có thể tự do làm theo ý mình, theo tôi, trung ương vẫn quan sát rất kĩ các địa phương và có khả năng chấm dứt những hoạt động mà họ không thích.
Dường như mối quan hệ giữa trung ương và địa phương tại Việt Nam có thể cho ta một góc nhìn khác khi tìm hiểu về vấn đề tham nhũng và xử lý tham nhũng tại Việt Nam?
TS Gainsborough: Theo tôi, một những những cách tiếp cận vấn đề này là quá trình gọi là đổi mới đã kéo theo quá trình phi tập trung hóa. Nếu như trước đây, các tỉnh phải phụ thuộc trung ương trong những vấn đề như tài chính, thì giờ đây họ có thêm nguồn tiền từ địa phương của mình.
Sự phi tập trung hóa đã cho các địa phương thêm quyền lực. Và tại thành phố Hồ Chí Minh trong thập niên 90, theo tôi trung ương đã nhiều lần cố gắng hạn chế quá trình phi tập trung hóa này. Có những lỗ hổng trong hệ thống quản lý tại Việt Nam mà khi bước vào những năm đổi mới đã tạo nên sự căng thẳng trong tiến trình phi tập trung hóa.
Vì thế, một số nhà phân tích cho rằng các vụ xử lý tham nhũng không hẳn chỉ để diệt trừ tham nhũng mà còn là dấu hiệu của trung ương nói với địa phương rằng anh đã vượt quá giới hạn được cho phép.
Ông có nghĩ điều này tương tự như ở Trung Quốc hay không?
TS Gainsborough: Tôi nghĩ là có nhiều điểm giống. Ở Trung Quốc ta cũng chứng kiến tiết lộ về các vụ tham nhũng lớn, các điều tra rồi thì án tử hình. Nhiều người cho rằng đó không đơn thuần là nỗ lực diệt trừ tham nhũng mà nó còn liên quan tới việc các khu vực khác nhau của nhà nước muốn giữ quyền kiểm soát, mà trong trường hợp này chính quyền trung ương cảm thấy cần giới hạn hoạt động của các cấp chính quyền địa phương.
Có một số nhà quan sát cho rằng việc xử lý các hoạt động phạm pháp tại thành phố Hồ Chí Minh hay tại Việt Nam nói chung thường đi theo một nhịp độ hoặc chu kỳ nhất định? Lấy ví dụ như việc đầu cơ đất đai, chẳng hạn?
TS Gainsborough: Vấn đề đầu cơ đất đã diễn ra trong một thời gian dài mà không có ai can thiệp. Rồi bất chợt có một chiến dịch lớn xảy ra, có người bị bắt và thị trường lắng lại. Trong vài tuần, không còn đầu cơ nữa và vài tuần tiếp theo đi qua, khi nhà chức trách đã chuyển sự chú ý đi nơi khác, người ta lại tiếp tục hoạt động đầu cơ.
Cứ như thế, sau một thời gian như một năm chẳng hạn, có một chiến dịch truy quét diễn ra và mọi thứ lại yên ắng. Cứ như thế. Dường như đây là cách nhà nước kiểm soát hành vi của mọi người trong xã hội, là dấu hiệu nói rằng anh có thể thực hiện hoạt động này đến một mức độ nhất định.
Nhưng nếu anh vượt quá giới hạn, người ta sẽ ngăn chặn anh và thỉnh thoảng cũng cần ngăn chặn anh để anh không thể phát triển quá mức. Mọi thứ dường như đi theo một chu kỳ như vậy.
Ông có nhận xét gì về mối quan hệ giữa các quan chức và doanh nhân tại TP HCM?
TS Gainsborough: Điều đầu tiên, theo tôi, là liệu chúng ta có thể phân biệt giữa chính trị gia và doanh nhân tại thành phố Hồ Chí Minh hay không? Dĩ nhiên, sẽ dễ dàng hơn nếu đó là một giám đốc trong khu vực tư nhân, có thể không nắm chức vụ trong các cơ quan quản lý nhà nước mà chỉ có quan hệ với nhà chức trách mà thôi.
Nhưng nếu lại nói về các doanh nghiệp nhà nước lớn, thì ta có một công ty với giám đốc hay các lãnh đạo thuộc một sở, ban, ngành cấp thành phố. Và ở đây, khó phân biệt giữa chính trị gia và doanh nhân. Trong nhiều trường hợp, họ là một. Và nếu như các chính trị gia có những quyền lợi kinh tế thông qua con cái hoặc người thân, thì cũng khó phân biệt giữa chính trị và kinh doanh.
Liệu đây có phải là lý do hậu thuẫn cho quan điểm của ông rằng các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò to lớn trong sự tăng trưởng của thành phố Hồ Chí Minh? Chẳng hạn trong quyển sách, ông dẫn số liệu nói rằng doanh nghiệp nhà nước đóng góp tới 46.5% GDP của thành phố Hồ Chí Minh trong năm 1998?
TS Gainsborough: Tôi nghĩ đó là một điểm quan trọng để giải thích vì sao doanh nghiệp nhà nước thu nhiều lợi nhuận trong thập niên 90 tại thành phố Hồ Chí Minh. Nói một cách công bằng thì một số doanh nghiệp nhà nước là những doanh gia giỏi, có kinh nghiệm về thị trường. Mặt khác, đó không phải là toàn bộ bức tranh.
Một trong những lý do, theo tôi, đã giúp các công ty nhà nước phát triển trong thập niên 90 là vì họ có khả năng tiếp cận các tài nguyên, tiềm lực của nhà nước thể hiện qua những hình thức như phân bổ ngân sách, cho vay từ ngân hàng, giấy phép hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh nhất định hoặc những thông tin bên trong để giành được hợp đồng.
Và nếu anh là một doanh nghiệp nhà nước lớn hay một công ty thuộc một cơ quan nhà nước, thì anh có thể nhận được sự bảo vệ trong kinh doanh mà công ty tư nhân không có.
Ông có viết là sự phát triển của các mối quan tâm và quyền lợi về kinh doanh tại thành phố Hồ Chí Minh là một yếu tố chủ đạo đằng sau bầu không khí chính trị chia rẽ tại đây. Vì sao ông lại dùng từ “chia rẽ”?
TS Gainsborough: Ý của tôi là mối quan hệ giữa các thiết chế chính trị khác nhau tại Việt Nam không thật sự bằng phẳng. Dĩ nhiên ở mọi quốc gia, bộ máy nhà nước thường có tiếng xấu là thiếu hợp tác với nhau.
Chẳng hạn, ở Anh, các bộ, ngành thường bị cho là không có quan hệ thật tốt đẹp. Vì thế câu hỏi đặt ra liệu tình hình ở Việt Nam có nặng nề hơn không. Theo tôi, câu trả lời là Có. Nếu có những chính sách đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa nhiều ban ngành, thì thường nó rất chậm được tiến hành. Nếu một cơ quan cảm thấy cơ quan khác đang dẫm lên chân họ, họ sẽ làm tất cả để kháng cự. Vì vậy, tôi nghĩ có sự chia rẽ trong bộ máy nhà nước Việt Nam.
Trong quyển sách của tôi, tôi khảo sát mức độ mà các quyền lợi gắn với nền kinh tế thị trường đã tạo nên sự chia rẽ này. Liệu có phải lý do mà các cơ quan nhà nước không hợp tác được với nhau là vì họ bận bảo vệ các quyền lợi kinh tế của mình hay không?
Nhưng mặt khác, chính trị tại Việt Nam thường được nói là dựa trên sự đồng thuận, sự lãnh đạo tập thể. Vậy nếu như có sự chia rẽ như ông nói, thì bộ máy lãnh đạo được duy trì như thế nào?
TS Gainsborough: Thật sự thì điều gọi là sự lãnh đạo tập thể áp dụng chính xác hơn cho cách thức điều hành của bộ máy trung ương tại Hà Nội. Tôi không chắc mức độ mà nguyên tắc lãnh đạo tập thể thật sự tác động tới hành vi của các giới chức tại thành phố Hồ Chí Minh. Và ngay cả tại Hà Nội, sự đồng thuận không có nghĩa là không xảy ra bất đồng và mâu thuẫn.
Quyển sách của ông tạo cảm giác rằng tiến trình đổi mới tại thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam không chỉ đơn thuần liên quan tới kinh tế thị trường, hay khu vực kinh tế tư nhân mà nó mà nó mơ hồ và phức tạp hơn. Và phần nào đó, không như nhiều người nghĩ, thành phố Hồ Chí Minh không hẳn đã khác nhiều địa phương khác tại Việt Nam. Vậy Khi nhìn về tương lai, ông có bình luận thế nào về những thay đổi có thể xảy ra trong hệ thống lãnh đạo tại thành phố Hồ Chí Minh?
TS Gainsborough: Dựa vào những quan sát tôi rút ra từ những thay đổi trong bộ máy lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua, thì cho mãi tới gần đây, nhiều nhà lãnh đạo tại thành phố có một điểm chung là họ đều từng có mặt tại miền Nam trong cuộc chiến Việt Nam.
Bây giờ, điều này dĩ nhiên ít phổ biến hơn. Nhìn vào hàng ngũ lãnh đạo hiện nay, đặc biệt từ mức giữa trở xuống trong hệ thống cấp bậc, thì nhiều người sinh ra trong thập niên 50, thậm chí muộn hơn, và không kinh qua nhiều năm chiến tranh. Nhiều người trong họ có bằng cấp, có thể là từ đại học Việt Nam hoặc một số học ở nước ngoài.
Và theo tôi, có thể giáo dục sẽ ngày càng trở thành điều kiện cần thiết để thăng tiến về mặt chính trị. Còn liệu giáo dục có tạo nên những thay đổi trong các giá trị, quan điểm hay không thì ít rõ ràng hơn.
Vậy còn thế hệ trẻ hơn ở tuổi hai mươi, ba mươi thì sao? Theo ông, vị trí của họ trong hệ thống lãnh đạo sẽ như thế nào?
TS Gainsborough: Điều này thật khó nói. Nhiều nhà quan sát nước ngoài có khuynh hướng cho rằng giới trẻ tại Việt Nam mất hết ảo tưởng với hệ thống chính trị trong nước. Theo tôi, nói như vậy là quá đơn giản hóa vấn đề.
Tại Việt Nam, tôi thấy rất nhiều người vẫn trung thành với hệ thống hiện nay, nhiều người khác thì có những ham muốn bình thường như làm sao sống được hay thành công trong nghề nghiệp và một phương tiện để đạt được điều này là phục vụ trong cơ quan nhà nước, trong chính phủ. Vì thế, tôi không thấy có vấn đề gì lớn trong việc các thanh niên này sẽ hòa nhập vào bộ máy hiện nay và trở thành lãnh đạo trong tương lai.
Tất nhiên họ sẽ mang theo những cách nhìn khác so với thế hệ trước đây. Và theo tôi quan hệ giữa các thế hệ già – trẻ sẽ là vấn đề chủ chốt đối với Việt Nam trong tương lai.
Nhưng liệu thế hệ trẻ tại Việt Nam có thật sự khác những người đi trước hay không?
TS Gainsborough: Chúng ta không thể thổi phồng sự khác biệt. Có những điều mà người ta sẽ nghĩ giống nhau, dù là ở tuổi hai mươi, ba mươi hay già hơn. Chẳng hạn, ngay cả hiện nay, theo tôi vẫ́n có sự đồng thuận tại Việt Nam cho rằng nhà nước cần đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Và có lẽ trong tương lai gần sẽ không có nhiều thay đổi trong quan niệm này.
Nhưng có thể thế hệ trẻ sau này sẽ sẵn sàng cho phép nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào thị trường chứng khoán, chẳng hạn, hay có thể họ sẽ dè dặt ủng hộ việc cần có thêm tự do trong hệ thống chính trị.
Chúng ta không biết chắc liệu chúng sẽ xảy ra hay không và tôi không cho rằng sẽ có những thay đổi triệt để, nhưng mỗi thế hệ tiếp sau tại Việt Nam sẽ có những điểm khác biệt một chút và có thể xem xét những điều mà thế hệ trước đây không chấp nhận. Tôi nghĩ đó là những diễn biến chúng ta có thể chứng kiến tại Việt Nam trong mười, hai mươi năm tới đây.