Johannes Brahms sinh ngày 7/5 1833 tại thành Humburg, miền bắc nước Đức và mất ngày 3 tháng Tư năm 1897 tại Vienna, Áo.
Cha ông Johann Jakob, là một nhạc công tự do, chơi được nhiều nhạc cụ và có một dàn nhạc nhỏ.
Brahms bắt đầu học Piano từ năm lên 7, học sáng tác và lý thuyết âm nhạc từ năm 13.
Brahms đã hấp thụ phong cách âm nhạc zigan liên quan đến chất liệu dân gian Hungary trong thời gian phối khí cho dàn nhạc.
Giai đoạn đầu đời của Brahms tương đối phẳng lặng cho đến khi Joesep Joachim, một nghệ sĩ Violin người Đức, khuyến khích và giới thiệu ông đến Lepzig gặp Schumann và Brahms trở nên nổi tiến sau bài báo ca ngợi của Schumann.
Trong thời gian Schumann ở trại tâm thần và Clara đi lưu diễn, Brahms bỏ nhiều thời gian trong thư việc của Schumann, nghiên cứu các ý tưởng và các tác phẩm âm nhạc của Schumann.
Qua đó, ông từ bỏ các tìm kiếm sáng tạo trước đó, trở về với các hình thức, tư tưởng âm nhạc truyền thống của thế hệ các nhạc sĩ tiền bối nhưng mở rộng, hoàn thiện và đưa vào đó âm hưởng mới của chủ nghĩa lãnh mạng.
Năm 1859, Brahms quay trở lại Humburg. Để kiếm tiền nhanh hơn, ngoài việc sáng tác, Brahms đồng thời biểu diễn Piano và dạy đàn và ông từng hướng dẫn một hợp xướng nữ,
Sau những chuyến lưu diễn dọc trên Bắc và Trung Âu, cuối cùng Brahms quyết định dừng chân và định cư tại thành Vienna vào năm 1868, nơi ông làm chỉ huy dàn nhạc cho Vienna Gesellschaftkonzerte, một hiệp hội âm nhạc uy tín tại Vienna.
Chức vụ này chỉ kéo dài một năm vì Brahms không thể dung hòa khát vọng sáng tác với đòi hỏi thực tế của công việc chỉ huy dàn nhạc.
Một loạt các tác phẩm lớn đã ra đời trong thời kỳ này đem lại sự công nhận tại Đức và nước ngoài. Âm nhạc Brahms đa dạng với cấu trúc và hòa thanh rất đặc trưng.
Thành công về âm nhạc đem lại sự đảm bảo về tài chính và hẳn Brahms là một nhà soạn nhạc đầu tiên trở nên giàu có qua việc bán các tác phẩm âm nhạc.
Giai đoạn thai nghén và hoàn thành tác phẩm của Brahms thường kéo dài rất lâu và ông không hiểu vì sao Bach và Mozart có thể hoàn thiện tác phẩm ngay trong đầu khi ông chật vật với từng nốt nhạc.
Các tác phẩm được công bố của ông đều có những giá trị nhất định vì Brahms cũng nghiêm khắc với âm nhạc của chính ông và luôn hủy đi những gì ông coi là kém cỏi.
Brahms luôn nhiệt tình với bất cứ ai thực sự cần đến sự giúp đỡ. Ông đã ủng hộ tài chính cho nhiều các nhạc sĩ, nhạc công trẻ mà ông trân trọng tài năng cũng như các quỹ từ thiện.
Tuy không lập gia đình và than vãn về nỗi cô đơn nhưng Brahms luôn hòa mình vào đời sống xã hội.
Lắng nghe các vũ khúc Hungaries, bạn có thể dễ dàng hình dung ra ông đang ngồi trước cửa một nhà hàng, vại bia trong tay, thưởng thức những giai điệu đầy màu sắc của các nhạc công Zigan trên đường phố thành Vienna.
Trong giai đoạn về sau, tình cảm giữa Clara và Brahms trở thành một tình cảm bạn bè trân trọng.
Dù có lẽ đây là một tình yêu thuần túy tinh thần, Clara và Brahms đã hủy đi rất nhiều thư từ trao đổi giữa hai người nhưng cũng còn sót lại khá nhiều, kể cả những bức mà Brahms đã bộc lộ những cảm xúc mãnh liệt nhất.
Cái chết của Clara năm 1896 đã giáng một đòn tinh thần nặng nề vào Brahms khi mất đi một người bạn thân thương nhất.
Dự cảm được về sự ra đi của Brahms, những người dân thành Vienn đã tung hô tiễn biệt ông trong một buổi công diễn giao hưởng số bốn.
Brahms mất ngày 3 tháng Tư năm 1897. Người ta đã tìm thấy trong phòng làm việc của ông, một tập Preludes viết cho hợp xướng, với bản cuối có tiêu đề…Ôi thế gian, ta phải xa lìa người.