![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Các vấn đề đặt ra cho thành cổ Thăng Long Việc khai quật cổ thành Thăng Long đã được nhiều báo đài tại Việt Nam chọn là sự kiện văn hóa của năm 2003.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho ban Việt ngữ đài BBC đầu năm 2004, giáo sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã mô tả tầm quan trọng cùng các vấn đề đặt ra trong việc gìn giữ di chỉ này. Đặc điểm Trong tác phẩm nghiên cứu về sự thích ứng văn hóa của khu vực Đông Nam Á (The Golden Peninsula: Culture and Adaptation in Mainland Southeast Asia, 1977), Charles F. Keyes xác định ba loại thành phố cổ chủ yếu. Loại thứ nhất là các thành phố "đền đài" đặt tại các khu vực nơi dân số là nông dân tin rằng thành phố tỏa ra đức tin tôn giáo giúp cho sự thịnh vượng của nhân dân. Đây là đặc điểm của các khu vực Ấn hóa tại Đông Nam Á, trong đó có kinh đô Vijaya của vương quốc Champa. Loại thứ hai là các thành phố "buôn bán", như Óc-Eo của Phù Nam thuộc nơi hiện nay là miền nam Việt Nam. Những đô thị này cũng có thể đóng một vai trò tôn giáo, nhưng chúng phát triển chủ yếu dựa trên buôn bán khu vực. Loại thứ ba mà Keyes chỉ ra là các đô thị "thành lũy", như ở Đông Kinh, khu vực đồng bằng sông Hồng. Vai trò của các đô thị đó về cơ bản mang tính chất quân sự, chính trị và hành chính. Keyes xem Thăng Long là dựa trên mô hình này, là trung tâm văn hóa, tôn giáo cũng như chính trị của người Việt. Tuy nhiên, thành phố này khác với mô hình lý thuyết trên ở chỗ, theo tài liệu để lại của những người đương thời, thì khu vực hoàng thành tương đối không phát triển như khu vực Kẻ Chợ buôn bán. Sau cuộc nổi dậy của Lý Bí thất bại hồi thế kỷ Sáu, nhà cầm quyền phương Bắc đã dời trụ sở từ Long Biên sang phía Nam sông Hồng, tức vùng Hà Nội và xây đắp nhiều ngôi thành ở đây. Thời nhà Đường, Cao Biền đã cho xây ngôi thành Đại La (866). Trong quyển "Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội" (1999), tác giả Doãn Kế Thiện cho biết từ năm 939, chấm dứt thời kì Bắc thuộc, đời Ngô Vương Quyền lại đóng đô ở Cổ Loa, hai đời Đinh, Lê thì đóng ở Hoa Lư, thành Đại La trở nên hoang phế. Dời đô Năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư ra nơi thành Đại La cũ để lập nên Thăng Long. Giáo sư Phan Huy Lê nói trước đây giới nghiên cứu không rõ khi Lý Thái Tổ dời đô thì thành Đại La ở chỗ nào, và nhà vua có dời về đúng nơi thành này hay không. Kết quả khai quật lần này giúp giới kết luận chắc chắn là Lý Công Uẩn đã sử dụng thành Đại La khi chuyển đô từ Hoa Lư. Nhà Lý tiếp tục sử dụng trên cơ sở Đại La cũ và mở rộng thêm. Thành Thăng Long đã trải qua nhiều biến động theo sau các đợt tàn phá của quân Mông Cổ, Chămpa, Hán cũng như các cuộc nội chiến. Một cuộc tái trùng tu lớn diễn ra sau khi Lê Lợi đánh bại quân Minh năm 1428 và lập nhà Hậu Lê. Khi nhà Mạc sụp đổ, các cuộc giao tranh Trịnh-Nguyễn diễn ra và đến năm 1592, chúa Trịnh phá bỏ các tường thành trước khi vua Gia Long xây dựng lại chúng. Trong thời Nguyễn, Bắc Thành trở thành Bắc Trấn, trụ sở của tổng trấn Bắc Kỳ. |
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||