Skip to main contentAccess keys helpA-Z index
BBCVietnamese.com
chinese
russian
french
Other Languages
 
13 Tháng 3 2004 - Cập nhật 17h20 GMT
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
Nước Nga trong trật tự thế giới mới
 

 
 
Giới sử học thường đặt ra hệ thống khái niệm riêng để giải thích diễn tiến của thế giới, và Samuel P. Huntington đưa ra lối phân tích mối quan hệ giữa các nền văn minh để giải đáp một số quá trình lịch sử mà những quan niệm cũ không lý giải được, trong đó có vấn đề tranh cãi về vị trí của Nga trong trật tự thế giới mới.

Sau thời điểm chuyển đổi chế độ, từ trung tâm của Liên Xô, tức là một cực của chiến tranh lạnh, đồng thời cũng là cường quốc kinh tế, nước Nga bỗng lộ ra trên trường quốc tế như một quốc gia yếu kém cần được đầu tư, giúp đỡ tài chính.

Nước Nga
Nước Nga sau cải tổ bỗng lâm vào tình trạng kinh tế yếu kém cần giúp đỡ

Dựa trên phân tích này, nhiều ý kiến chỉ trích không hài lòng khi thấy phương Tây có vẻ như đã quá nâng đỡ giới lãnh đạo Nga khi cho họ vị thế hầu như ngang bằng trong những cuộc họp của các cường quốc.

Tuy nhiên, theo mô hình thế giới của Huntington, thì nước Nga là một cực quan trọng trong thế giới mới đa cực, với những mối quan hệ qua lại, phụ thuộc.

Theo ông thế kỷ 20 kết thúc cũng là lúc chấm dứt kiểu phân chia thế giới gồm hai nhóm cường quốc kinh tế và một nhóm nghèo gọi là thế giới thứ ba, mà hiện chuyển sang kiểu liên kết chính trị ở dạng các nền văn minh tiếp xúc với nhau.

Luận điểm này được Samuel P. Huntington đưa ra năm 1993 trên tạp chí Foreign Affair và sau đó xây dựng thành sách xuất bản năm 1996, gây khá nhiều tranh luận trước khi sự kiện 11 tháng Chín và cuộc chiến Iraq kịp gây xáo trộn.

Khái niệm về nền văn minh dùng trong sách được hiểu như là phạm trù mở rộng của văn hóa, khi mà các nước hoặc nhóm dân có bản sắc văn hóa giống nhau có xu hướng liên kết lại.

Văn minh Nga là Chính thống giáo

Trước hết, Huntington khẳng định nền văn minh Nga đương đại có cơ sở là văn hóa Nga mang đặc tính tôn giáo của đạo Thiên Chúa chính thống.

Sau khi khối cộng sản tan rã thì "từ Albani cho đến Việt Nam, các xu hướng tôn giáo được tái sinh để thay thế khoảng trống mà sự đổ vỡ ý thức hệ để lại".

Các số liệu trong sách dẫn ra rằng vào năm 1994 có đến 30% dân Nga ở độ tuổi dưới 25 xác nhận từ bỏ con đường vô thần để tin vào Chúa, còn riêng Mátxcơva từ con số 50 nhà thờ Chính thống giáo vào năm 1988 tăng lên thành 250 vào năm 1993.

Theo Huntington quá trình hiện đại hóa đã khiến chính trị quốc tế chuyển dạng, dựa vào ranh giới của các nền văn hóa: người dân và các quốc gia có văn hóa tương tự xích lại gần nhau, còn khác nhau thì tự tách dần nhau ra, hệ quả là trật tự thế giới cũ đặt nền tảng trên ý thức hệ hay mối liên kết giữa các cường quốc nay phải nhường chỗ cho quá trình phân chia của văn hóa và văn minh.

Khi đó giới chính trị bắt đầu sử dụng các khẩu hiện nhắc đến "Đại" cộng đồng văn hóa vượt khỏi biên giới quốc gia, chẳng hạn như "Đại Iran", "Đại Uzbekistan", "Đại Trung Hoa"... và "Đại Nga".

Người dân Nga
Ý thức hệ tan vỡ khiến nhiều người tìm đến niềm tin tôn giáo

Tuy nhiên Huntington cũng nhắc rằng thế giới mới trên trật tự văn minh thực ra chưa hoàn thành dù đang tiệm tiến theo hướng này.

Để trở thành một khối mang bản sắc văn minh riêng cần có 3 điều kiện: 1) tầng lớp thượng lưu chính trị và kinh tế phải nhận thức và ủng hộ hướng đi này, 2) xã hội phải ít nhất là sẵn sàng chấp nhận đổi bản sắc, và 3) được cấu trúc của cả khối văn minh đó tiếp nhận.

Trên cơ sở lý luận như đã trình bầy, Huntington phân tích lịch sử nước Nga với tư cách một trung tâm văn minh đang trong quá trình hình thành, tóm lược thành bốn giai đoạn.

Thời kỳ cô lập

Giai đoạn thứ nhắt là trước thời Pi-e đại đế (1689-1725), khi mà các triều đại Kiev và Matxcơva tồn tại một cách hầu như không liên quan với phương Tây, phát triển trên nguồn gốc Bizantin, hầu như không tiếp xúc với các quá trình lịch sử tạo nên bản sắc phương Tây là: Thiên Chúa giáo La Mã, Phong Kiến, Phục Hưng, Cải Cách, bành trướng trên biển đi kèm với chiếm thuộc địa, Khai Sáng và quốc gia dân tộc.

Qua so sánh, Huntington nhận định 7 trong số 8 đặc tính của văn minh phương Tây (một cực trong hệ thống khái niệm thế giới đa cực) hoàn toàn xa lạ với nước Nga: tôn giáo, ngôn ngữ, quan hệ giữa tôn giáo với chính quyền, chế độ pháp quyền, cơ cấu đại diện, chủ nghĩa cá nhân.

Đặc tính chung duy nhất là cùng nguồn gốc cổ đại, di cư vào Nga từ đế quốc Bizantin, nhưng có khác với những gì phương Tây nhận trực tiếp từ La Mã.

Huntington cho rằng vào thời gian cuối của giai đoạn thứ nhất, nước Nga không chỉ khác châu Âu mà còn lạc hậu sau quá trình phát triển dưới các ảnh hưởng như triều đại Kiev, triều đại Matxcơva, dòng tư tưởng Bizantin cùng 200 năm thuộc địa của Nguyên Mông.

Hướng sang phương Tây

Pi-e Đại Đế đã nhận ra điều này trong chuyến công du phương Tây những năm 1697-1698 và quyết định hiện đại hóa, phương Tây hóa đất nước, khởi đầu từ việc bắt cạo râu, cấm đội mũ chóp hay mặc áo thụng để tạo cho thần dân vẻ ngoài phương Tây.

Tiếp theo là cải cách ngôn ngữ, và đặc biệt là hiện đại hóa cùng mở rộng quân sự, chuyển thủ đô về St. Petersburg, khai chiến với Thụy Điển để gia tăng quyền lực trên biển Ban-tích, xác định uy thế trên chính trường châu Âu.

Tuy nhiên quá trình cải cách này chịu ảnh hưởng của tư tưởng mà Huntington gọi là theo kiểu Á châu, vì theo hướng chuyên chế, thiếu quan hệ xã hội lẫn đa cực trong chính trị, trong bối cảnh tầng lớp địa chủ hầu như không được phép gây ảnh hưởng, còn tầng lớp nông dân bị giới hạn tự do.

Huntington nhận định ảnh hưởng từ giai đoạn hai này lưu lại sang cả các giai đoạn sau, vì chủ trương hiện đại hóa, phương Tây hóa song hành với chuyên chế cũng được ghi nhận trong thời Lenin, Stalin, hay thời Katherine Đệ Nhị và Aleksander Đệ Nhị, mà sau này Gorbachov khi tiến hành glasnost đã không nhận thức đủ.

Dân chúng Nga
Số người ủng hộ mở cửa xấp xỉ số người muốn đóng cửa

Trước điểm khởi đầu của giai đoạn ba, tức là thời kỳ của những người Bôn-sê-víc, nước Nga xích lại gần phương Tây hơn là phương Tây hóa bản thân vì xã hội vẫn giữ nguyên đặc tính cũ, nổi bật là lòng tin, thói quen và cơ cấu Á châu pha trộn văn hóa Bizantin.

Bôn-sê-víc

Thời kỳ Xô-viết bỏ qua quá khứ Á châu hay các vấn đề sắc tộc, tôn giáo, chú trọng đến nền móng khởi đầu cho một cơ chế mới của các hội đồng cách mạng, và nhờ cách mạng mà nước Nga đã vượt trước phương Tây một bước, như quan điểm từ các đại hội Quốc tế cộng sản.

Lối tư duy này cho phép giới lãnh đạo Liên Xô khẳng định sự khác biệt với phương Tây, nhưng đồng thời lại tạo ra mối quan hệ chặt chẽ với phương Tây, do chủ nghĩa cộng sản bắt nguồn từ hai người Đức là Các Mác và Ăng-gen, cũng như do khoảng thời gian cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20 nhiều nghiệp đoàn công nhân và đảng phái dân chủ xã hội hay lao động ở phương Tây cũng du nhập luồng tư tưởng cộng sản và tăng uy thế trên chính trường Âu châu.

Thế nhưng những hi vọng của phương Tây ở thời kỳ đầu của gian đoạn bốn, tức là khi chủ nghĩa cộng sản cùng Liên Xô bất ngờ tan rã, mong rằng tự do dân chủ sẽ bao phủ lên lãnh địa cũ của những người Xô-viết, giờ đây cũng tan theo mây khói.

Kết thúc Chiến tranh lạnh

Huntington giải thích rằng trước đó phe tự do dân chủ có chung ngôn ngữ với phe cộng sản, nhưng giờ đây không thể thực hiện các cuộc đối thoại tư tưởng với phe dân tộc Chính thống giáo Nga được nữa.

Khi trước các nhà hoạt động vì sắc tộc và tôn giáo không có đất dụng võ nhưng giờ đây nước Nga đang tự tranh cãi về đặc tính cho bản sắc của mình, cũng tương tự như hai nước Bạch Nga và Ukraina.

Xu hướng "mở cửa" hay "đóng cửa" với phương Tây cũng phân chia dân Nga, theo như nghiên cứu xã hội năm 1992 đưa ra con số tỷ lệ là 40% so với 36%.

Thế đó là phân tích của Huntington về quá trình hình thành nền văn minh Nga qua so sánh với phương Tây, nhưng trong hệ thống khái niệm của ông còn có các cực khác như là Trung Hoa, Hồi giáo, Nhật Bản, Ấn Độ, Nam Mỹ và Phi Châu, sẽ được chuyên trang Văn Hóa của Ban Việt ngữ đài BBC giới thiệu trong các kỳ tới, kính mời quí vị đón theo dõi.

Tham khảo:

Samuel P. Huntington 1996, "The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order",

qua bản dịch tiếng Ba Lan của:
Hanna Jankowska 1997, 2001, "Zderzenie Cywilizacji", MUZA SA

Samuel P. Huntington là học giả nổi bật trong ngành chính trị quốc tế, là giám đốc Trung tâm các vấn đề quốc tế mang tên John Olin của đại học Harvard.

-----------------------------------------------------------------------------------

PHẦN DÀNH CHO Ý KIẾN TRANH LUẬN CỦA ĐỘC GIẢ

 
 
Tên
Họ*
Thành phố
Nước
Điện thư
Điện thoại*
* không bắt buộc
Ý kiến
 
  
 
Đài BBC có thể biên tập lại ý kiến của quí vị và không bảo đảm tất cả thư đều được đăng.
 
TRANG NGOÀI BBC
 
BBC không chịu trách nhiệm về nội dung các trang bên ngoài.
 
TIN MỚI NHẤT
 
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
 
   
 
BBC Copyright Logo ^^ Trở lại đầu
 
  Trang chủ| Thế giới | Việt Nam | Diễn đàn | Bóng đá |Văn hóa | Trang ảnh |
Chuyên đề| Learning English
 
  BBC News >> | BBC Sport >> | BBC Weather >> | BBC World Service >> | BBC Languages >>
 
  Ban Việt ngữ | Liên lạc | Giúp đỡ | Nguyên tắc thông tin cá nhân