06 Tháng 3 2004 - Cập nhật 22h03 GMT
Lê Hải
Biên tập viên Ban Việt Ngữ đài BBC
Với số lượng tranh khá lớn và là họa sĩ có nhiều đóng góp về kỹ thuật trong nhóm trường phái Ấn Tượng, các tác phẩm của Claude Monet thường được giới chuyên môn phân tích để rút ra các bài học cho ngành hội họa đương đại.
Trong giai đoạn cao trào của nhóm họa sĩ Ấn Tượng, Monet đã thực hiện nhiều tác phẩm về nhà ga Saint-Lazare mà bức vẽ - từ bên trong ga - lưu trữ ở bảo tàng Anh the National Gallery được nhóm chuyên gia của bảo tàng này cùng quĩ Esso UK phân tích qua kỹ thuật chụp ảnh với ánh sáng xiên và tia X quang để tìm lại vết tích của quá trình lao động nghệ thuật của họa sĩ trên mặt vải.
Đề tài
Ðầu năm 1877 Claude Monet đã vẽ 12 bức họa ga Saint-Lazare mà 7 bức được trưng bầy tại triển lãm lần thứ 3 của nhóm Impressionists (các họa sĩ theo trường phái Ấn Tượng) với 19 họa sĩ tham gia.
Trong thời kỳ này, các đề tài về cuộc sống hiện đại vốn bị xem là tầm thường, không phải là đề tài để thực hiện một tác phẩm nghệ thuật, trong khi nhóm họa sĩ Ấn tượng có quan điểm ngược lại, mà Monet thì chọn ngay khung cảnh nhà ga với các đường nét kiến trúc sắt thép hiện đại của mái vòm cùng những cỗ xe lửa nặng nề, nhưng "ấn tượng" đã được ghi nhận lại qua khung cảnh đám đông chờ đợi trong lúc các đầu máy phun khói còn các toa xe thì dường như đang di chuyển.
Dùng kỹ thuật chụp chiếu sáng để so sánh và phân tích, giới chuyên gia cho rằng Monet đã khởi đầu bằng mầu đậm thể hiện các đường nét định vị cùng các mảng mầu tối như là mái nhà, cầu vượt, và có thể là luôn cả vị trí của các đầu máy xe lửa.
Giai đoạn thứ hai của quá trình vẽ được xem là đã thể hiện hầu hết các nét chính của tác phẩm, với những mảng mầu mỏng và nhanh, có đôi lúc bằng nét vẽ xoay tròn.
Kỹ thuật
Các phân tích từ ảnh chụp với ánh sáng xiên và ánh sáng chiếu ngược từ phía sau mặt tranh cho thấy các lớp sơn rất mỏng, không phủ đều toàn bộ mặt vải, cho phép nhìn thấy lớp sơn trước hoặc lớp sơn tráng mặt vải lộ ra bên dưới lớp sơn sau.
Các nét vẽ xoắn được Monet đặc biệt để kết thúc tự nhiên, giữ lại sắc nét trên bề mặt tranh đến tận ngày hôm nay.
Một số ghi nhận từ thời kỳ này cho thấy hiệu ứng thị giác từ nét vẽ trên mặt tranh đã được một số danh họa thời kỳ trước như Rembrandt hay Velázquez thử nghiệm nhưng phải đến cuối thế kỷ XIX các họa sĩ Impressionism như Monet mới có nhiều điều kiện dễ dàng thể hiện khi các hãng sản xuất cọ vẽ bắt đầu áp dụng kỹ thuật bọc kim loại phần nối giữa thân cọ và lông cọ cho phép tạo ra các mặt cắt cọ phẳng thay vì chỉ có loại tròn như trước kia.
Trong giai đoạn sau Monet còn được ghi nhận như là họa sĩ thường đặt hàng các loại cọ lông dài và uyển chuyển để ông dễ tạo các hiệu ứng bề mặt như ý muốn.
Một số nhận định của Monet được ghi nhận lại cho thấy ông nghiên cứu khá kỹ về Rembrandt, ví dụ như trong trao đổi với Cabot Perry về phản ứng của mặt tranh với các thay đổi của môi trường treo tranh ông đã nói bề mặt tranh của Rembrandt vẽ mầu đầy và nặng hơn của ông rất nhiều nhưng thời gian đã làm các đường nét dần lắng đọng xuống thành phẳng.
Hiệu quả
Ðiểm đáng được đặc biệt quan tâm trong "nhà ga Saint-Lazare" ở bảo tàng the National Gallery là lối thể hiện độ sáng tối khá lý thú của Monet - dùng mầu xanh dương xám thể hiện đám sương hơi nước trên nền trời trắng tạo ra hiệu ứng sáng tối rất rõ nét.
Theo nhận định của nhóm chuyên gia, kỹ thuật này có thể do Monet vô tình tạo ra trong bối cảnh vẽ vội, nhưng hiện được giới hội họa sử dụng khá nhiều với thuật ngữ gọi là hiệu ứng turbid medium.
Giai đoạn cuối của quá trình lao động nghệ thuật khá nhẹ nhàng với một ít mầu xanh lá cây cho phần cận cảnh cùng vài nét xanh dương tạo thành các đường ray bên góc trái bức tranh cũng như một ít tô điểm cho các mặt sơn nền đã khô, cùng với chữ ký của tác giả cho tác phẩm đã hoàn tất.
Do các sắc mầu có thời gian khô khác nhau cho nên các lớp mầu sau khi được vẽ đè lên trên lớp mầu trước sẽ cho ra các hiệu ứng sắc nét và pha trộn khác nhau, tùy theo độ khô của lớp trước.
Trong các trao đổi của giới họa sĩ Impressionism xuất hiện khá nhiều thuật ngữ đề cập đến hoàn cảnh này, khi họ nói vẽ ướt-lên-ướt, hay ướt-lên-khô và ướt-vào-ướt.
Tache
Chính các nét vẽ để lại vết tích, hay còn được gọi là tache, là nguyên cớ mà giới hội họa hàn lâm và salon thời bấy giờ chê trách các tác phẩm của giới Ấn Tượng là dở dang và không tiếp nhận vào bán trong mạng lưới giới thiệu và tiêu thụ các tác phẩm hội họa của họ.
Trong khi đó có không ít họa sĩ Ấn Tượng xem bề mặt tranh là sản phẩm nghệ thuật và không cho các phòng tranh phủ lớp sơn bóng làm phẳng mặt tranh, cũng không cho dùng các loại khung tranh cổ điển làm thay đổi sắc mầu và góc cạnh của ánh sáng chiếu vào mặt tranh.
Giới chuyên môn cho rằng trong loạt tranh nhà ga Saint-Lazare Monet đã sáng tạo được một gam mầu tối hợp thành từ tất cả các mầu gốc mà họa sĩ có trên bảng pha mầu trộn lẫn lại, trừ mầu trắng và mầu vàng mà thôi.
Giả thiết này đã được nhóm nghiên cứu trên bức tranh giữ ở bảo tàng the National Gallery chứng minh bằng kỹ thuật phóng đại gấp 200 lần các chi tiết trên mặt tranh. Họ đã bất ngờ khi phát hiện thấy các mảng mầu tối như đầu máy xe lửa và phần mái nhà ga được tạo thành hầu như là từ các mầu sáng, chỉ pha rất ít đen mà thôi.
Hộp mầu
Các phân tích X quang cho thấy bảng mầu gốc trên tranh gồm có: 3 mầu xanh dương (cobalt aluminate, cobalt stannate và French ultramarine), 2 mầu xanh lá (emerald và viridian), 2 mầu đỏ (vermilion cho phần sáng và cherry lake cho phần thẫm) cùng mầu vàng sáng (lead chromate) và đen ngà kèm trắng chì (lead white).
Một số ý kiến cho rằng hai mầu xanh French ultramarine và viridian thường xuất hiện trong tranh của Monet như là mầu thay thế cho sắc mầu đen, kèm với đỏ red lake, trong khi đỏ vermilion lại cho tác dụng hoàn toàn ngược lại, tức là làm cho sắc mầu sáng hơn.
Bộ 12 tác phẩm về nhà ga Saint-Lazare tuy cùng được vẽ trong một thời điểm nhưng dường như là nhiều thử nghiệm khác nhau của Monet muốn thể hiện hoặc tìm hiểu các cách thể hiện khác nhau, khi mà mầu thể hiện ánh sáng của mỗi bức có khác nhau - từ sáng trắng đến sáng ấm, cũng như bố cục cũng có khác nhau - 4 bức vẽ nội cảnh và các bức còn lại nhìn từ các góc cạnh khác, kể cả ngoại cảnh, hay thời gian đầu tư cho mặt tranh và mức độ thể hiện chi tiết cũng khác nhau.
Ðiều này thể hiện rõ khi đối chiếu 3 tác phẩm cùng tên của Monet hiện được trưng bầy ở 3 bảo tàng khác nhau là Art Institute - Chicago, the National Gallery - London và Musée d'Orsay - Paris.
Quí vị có quan tâm đến cuộc đời sáng tác của Monet lẫn các họa sĩ thuộc trường phái Ấn Tượng, xin mời đón đọc các bài sau trên trang Văn hóa xã hội của Ban Việt Ngữ đài BBC. Mọi yêu cầu, ý kiến phê bình hay bài viết mở rộng xin chuyển qua Hộp tiện ích đặt ở góc phải màn hình này, viết bằng phông chữ Unicode.
Tham khảo:
David Bomford et al. 1990 Art in the making: Impressionism, The National Gallery London in association with Yale University Press, New Haven and London. ISBN 0-300-05035-6