BBCVietnamese.com

11 Tháng 3 2004 - Cập nhật 16h59 GMT

Lê Quỳnh
Ban Việt ngữ đài BBC

Bảo Đại – Vị hoàng đế cuối cùng

Tạp chí Lá thư thính giả tuần này của ban Việt ngữ có khách mời là hai người anh em họ của Cựu Hoàng Bảo Đại.

Nhân dịp này, trang Văn hóa có bài tóm lược cuộc đời của vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn.

Hoàng tử Vĩnh Thụy, sinh năm 1913 ở Huế và trở thành Đông cung thái tử năm 1922.

Ông được đưa sang Pháp học, theo sự chăm sóc của Khâm sứ Charles.

Ngày 8-1-1926, ông chính thức nối ngôi cha, vua Khải Định, và rồi lại quay về học tiếp ở Pháp. Công việc cai trị đất nước để lại trong tay chính quyền thuộc địa Pháp và Hội đồng phụ chính triều đình Huế, do Nguyễn Hữu Bài – một tín đồ Thiên chúa giáo - đứng đầu.

Khi Bảo Đại sắp bước sang tuổi thành niên (18), triều đình Huế thúc giục người Pháp đưa vị hoàng đế quay về, trong lúc đa số quan chức Pháp cảm thấy Bảo Đại nên ở lại thêm ít nhất hai năm để học. Có vẻ như một trong các lý do là Pháp muốn tình hình tại Việt Nam bình ổn trước sự trở về của hoàng đế.

Và sự trở về đã là chủ đề cho một chiến dịch quảng bá nhằm tạo hiệu quả tối đa. Tháng Năm 1931, Bộ trưởng thuộc địa Reynaud, trong cuộc gặp với hội đồng phụ chính ở Huế, tuyên bố: “đất nước các ông, sau sự trở về của hoàng đế Bảo Đại, sẽ chứng kiến một trong những khoảnh khắc vĩ đại trong lịch sử.”

Sự háo hức của người Việt có thể tìm thấy qua các bình luận trên báo chí thời đó. Thảo luận về tiềm năng sẽ có cải cách chính trị được bổ sung bằng các tường thuật nói về sự chuẩn bị cho ngày về cũng như các tin đồn tăng thêm tự do cho báo chí bản địa.

‘Đảo chính’ năm 1933
Ngày 6-9-1932, Bảo Đại, ở tuổi 19, quay về Việt Nam. Một trong những quyết định đầu tiên của vị vua là bãi bỏ tục lạy (các quan thôi khỏi khấu đầu quỳ tấu ở trước sân đình).

Rồi vào ngày 2-5-1933, với sự chuẩn thuận của toàn quyền Pasquier, ông thực hiện điều mà người đương thời gọi là ‘cuộc đảo chính âm thầm’ bằng việc hạ bệ Nguyễn Hữu Bài và bộ sậu của ông này. Nhiều nhân vật trẻ được đưa vào nội các, nổi bật nhất là Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm và Bùi Bằng Đoàn.

Phản ứng của báo chí đương thời trước sự kiện này nói chung tích cực. Một bài của tờ Annam Nouveau nhắc về ‘sự gia tăng uy tín’ mà Bảo Đại có được từ cuộc ‘đảo chính’ và bình luận là ‘tất cả chứng tỏ ông hoàn toàn đồng thuận với tư tưởng của giai tầng ưu tú mới.’

Như vậy mấy tháng đầu tiên sau khi Bảo Đại trở về có vẻ đánh dấu một sự khởi đầu thuận lợi. Bằng việc thay đổi nhân sự ở cấp cao nhất, ông làm hài lòng cả phe bảo hoàng muốn nhà vua thâu tóm thêm quyền lực và cả những người ít thủ cựu có khuynh hướng chỉ trích triều đình đương thời. Nhưng một biện pháp như thế không có nhiều ý nghĩa trừ phi nó biến thành uy quyền thật sự và các cải cách lớn. Khoảng thời gian từ đây đến khi Thế chiến Hai nổ ra sẽ chứng tỏ mức độ thay đổi mà có thể xảy ra.

‘Thời kì mới’ 1933-1939
Như dự kiến, cơ cấu chính quyền mới kêu gọi thêm các cải cách, với từng nhân vật có các quan điểm khác nhau.

Nhịp độ công việc của bộ máy mới bị đứt đoạn vì sự từ chức bất ngờ của Ngô Đình Diệm vào giữa tháng Bảy 1933.

Đã có nhiều lý do giải thích tình tiết này. Chẳng hạn, những tài liệu của Pháp ghi nhận Ngô Đình Diệm tỏ ra không hợp với vị trí mới. Mặc dù có tiếng trung thực và có khả năng khi làm quan cấp tỉnh, nhưng ông Diệm tỏ ra thờ ơ với cương vị của một bộ trưởng. Toàn quyền Pasquier ghi nhận: “Rõ ràng chúng ta đang tiếp xúc một người bí ẩn, rất thờ ơ với những điều thế tục và muốn rút lui ngay khi có cơ hội.” Trong hồi kí của mình, Bảo Đại lại bảo Ngô Đình Diệm trình bày với ông là ông bất mãn khi người Pháp trắng trợn vi phạm hiệp ước về chế độ bảo hộ. Và cũng có thuyết nói cuộc xung đột căn bản là giữa Phạm Quỳnh và Nguyễn Hữu Bài; trong lúc Diệm và Bài có liên hệ dựa trên gia đình và tôn giáo (anh trai của Diệm, Ngô Đình Khôi, cưới con gái của Nguyễn Hữu Bài).

Dù thế nào, trong khuôn khổ nội dung ta đang bàn, sự từ chức thể hiện những mâu thuẫn trong nội bộ triều đình, góp phần vào việc đình trệ các dự định cải tổ. Một yếu tố khác là chính thái độ Bảo Đại. Trong hồi ký, ông bảo mình bị sốc và mất ảo tưởng khi quay về chỉ để nhận ra mình chả có mấy quyền hành. Mặc dù luôn cần thận trọng khi đọc các hồi ký, nhưng không phải không có lý để giả định Bảo Đại thật sự thất vọng với kết quả của những cải cách ban đầu mà ông nắm vai trò khởi xướng. Ngoài ra cái chết vì tai nạn máy bay của toàn quyền Pierre Pasquier đầu năm 1934 cũng làm mất đi con người ủng hộ Bảo Đại mạnh mẽ nhất.

Và cuối cùng, chắc chắn Bảo Đại nhận ra rằng cải cách nào thì cũng không làm thay đổi mối quan hệ căn bản giữa Pháp và Việt Nam. Chức vụ Résident Supérieur và toàn quyền nắm thế chủ động, và mọi quyết định quan trọng đều phải thông qua một hoặc cả hai nhân vật này. Trong hoàn cảnh đó, Bảo Đại có ít thực quyền, và bất kì sự nhiệt tình nào của ông ắt hẳn cũng dần phai lạt.

Thế chiến Hai

Ngày 3-9-1939, Pháp tuyên chiến với Đức. Mười ngày sau, Bảo Đại nộp bản đề nghị cải cách gồm bốn điểm. Tân toàn quyền Catroux lấy lý do tình hình chiến tranh để thoái thác việc thảo luận. Nhưng ông có quà an ủi là chiếc máy bay Morane 343 cho vị vua trẻ để tiêu khiển.

Dù có quan tâm đến cải cách, Bảo Đại không phải là một lãnh tụ chính trị hay thậm chí một người tranh cãi bướng bỉnh. Sau này, khi đề nghị chương trình cải cách với toàn quyền Jean Decoux, ông được bảo là giống như ở Anh, hoàng đế trị vì nhưng không cai trị. Bảo Đại không tốn thời gian phản đối: ông chọn vai trò mà nhiều người sau này gọi là một ‘playboy’ hoàn hảo.

Đêm 9-3-1945, Nhật làm đảo chính Pháp tại Đông Dương. Ngày 11-3, sau cuộc gặp với đại sứ Nhật Yokoyama, Bảo Đại công khai bãi bỏ hiệp ước 1884 với người Pháp và tuyên bố sự độc lập của Việt Nam nằm trong khối Đại Đông Á.

Ngày 19-3-1945, dưới sức ép của Nhật, Bảo Đại buộc phải cách chức Phạm Quỳnh, người thân Pháp. Vài tuần sau, Phạm Quỳnh bị Việt Minh bắt và hành quyết. Một chính phủ mới, với thủ tướng Trần Trọng Kim, được lấp vào chỗ trống. Họ dự định cải cách hiến pháp cùng nhiều chủ đề khác, trước khi nhận ra quyền quyết định nằm trong tay người Nhật.

Thoái vị
Sau vụ đánh bom Hiroshima, chính quyền Nhật đầu hàng ngày 8-5-1945. Ngày 17-8, chính quyền Huế ra hai đạo dụ. Một nói rằng Bảo Đại mời lãnh đạo Việt Minh đến Huế để thành lập nội các và rằng ông sẵn sàng chuyển giao quyền lực cho họ nếu đó là ý nguyện của dân. Chiếu thứ hai xác nhận sự độc lập của Việt Nam. Sau khi Hà Nội rơi vào tay Việt Minh ngày 19-8, mọi sự xem như an bài. Đêm 23-8-1945, Chính phủ Cách mạng Lâm thời gửi điện đòi Bảo Đại thoái vị. Để rồi ngày 30-8-1945, một lễ thoái vị diễn ra trước Ngọ môn. Bảo Đại - người từ nay trở thành công dân Vĩnh Thụy - tuyên bố: “Thà làm dân một nước độc lập, hơn làm vua một nước nô lệ".

Sự nghiệp chính trị của Bảo Đại chưa kết thúc với việc thoái vị, tuy ông chỉ là một nhánh trong cả mạng lưới những hi vọng và chính sách tác động tới sự phát triển của Việt Nam theo sau Nhật đầu hàng tháng Tám 1945. Ông tiếp tục đóng một vai trò phức tạp và mơ hồ trên chính trường, với việc trở về sau thời gian lưu vong cuối thập niên 1940 để trở thành Quốc trưởng do Pháp bảo trợ. Cuối cùng năm 1955, ông bị Ngô Đình Diệm truất phế. Đến thời điểm này, chế độ quân chủ Việt Nam vĩnh viễn kết thúc.