Skip to main contentAccess keys helpA-Z index
BBCVietnamese.com
chinese
russian
french
Other Languages
 
24 Tháng 5 2004 - Cập nhật 17h10 GMT
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
Một cách so sánh lịch sử Anh - Việt
 

 
 
Magna Carta là đại hiến chương của Anh ban hành năm 1215
Anh có quan niệm về luật pháp khác với Việt Nam
Phần đầu của bài so sánh lịch sử Anh-Việt đã đề cập vì sao trong cùng một thời điểm thế kỷ 16, chế độ quân chủ ở Việt Nam và Anh đi theo hai hướng khác nhau.

Phần hai này, trích lược từ bài viết của GS. Ralph B. Smith, trường nghiên cứu phương Đông và châu Phi (SOAS), London, phân tích về tính chính thống và quan niệm luật pháp tại hai nước.

Nước Anh và Việt Nam thế kỷ 16 đều có chế độ quân chủ và cả hai, trong những hoàn cảnh khác nhau, được mô tả như là ‘các chế độ chuyên quyền’ (despotism).

Triều đình ở Việt Nam thuộc dạng mà K. A. Wittfogel gọi là ‘chế độ chuyên quyền phương Đông’. Tức là, quyền lực của vua mang tính độc đoán, không chịu ràng buộc bởi những việc như phải được một nghị viện thông qua vấn đề thuế má. Cũng không có ràng buộc hay tiền lệ buộc ông vua phải tôn trọng luật pháp; cũng không có Giáo hội nắm giữ những lãnh vực không nằm trong quyền hạn của vua.

Vua ở Việt Nam có quyền không hạn chế như vậy, thế nhưng trong thế kỷ 16, triều đình Việt Nam lại trở nên yếu đi trong khi chế độ quân chủ Tudor càng trở nên mạnh hơn. Mặc dù vua Anh sẽ phải nhượng bộ nghị viện trong thế kỷ 17, nhưng chính quyền vẫn còn mạnh nếu so với ở Việt Nam. Có một nghịch lý trong sự khác biệt này mà cần giải thích.

Tính chính thống
Tính chính thống (legitimacy) và quyền trưởng nam là một trong những yếu tố giúp củng cố triều đình Anh. Tại Anh, quyền trưởng nam được đặt thành nguyên tắc, và ngoài ra ở Anh (khác với một số nước châu Âu khác), con gái đầu cũng có thể nối ngôi nếu không có người thừa kế nam trực tiếp.

Sự quan trọng của tính chính thống thể hiện qua việc, ngay từ thế kỷ 15 ở Anh, những ai tìm cách cướp ngôi đều phải tìm ra một cớ mang tính pháp lý: tất cả những người trở thành vua đều là con cháu của dòng họ Plantagenet. Quyền lực có thể nằm trong tay một bá tước Warwick hay Norfolk, nhưng anh ta không bao giờ có cơ hội tự trở thành vua. Đến thế kỷ 16 cũng tương tự: nguyên tắc chính thống giúp cho ba con của Henry VIII lần lượt cai trị nước Anh giữa các biến cố khác nhau.

Nữ hoàng Elizabeth
Tại Anh, phụ nữ cũng có thể lên ngôi

Chế độ quân chủ Việt Nam không nhấn mạnh nhiều như thế vào tính chính thống. Ngoại trừ việc phụ nữ không thể lên ngôi, không có quy tắc chế độ con trưởng. Ở một nước mà vua có nhiều vợ, số lượng các hoàng tử nhiều hơn hẳn ở Anh. Khi vua mất, không ai có quyền tự động lên ngôi. Thông thường vua, trước khi mất, đề cử người kế vị. Nhưng điều này để ngỏ khả năng là sự lựa chọn của vua sẽ chịu tác động bởi một phe hùng mạnh trong cung đình (có thể có quan hệ ruột rà với một bà hoàng nào đó), mà như thế người nối ngôi sẽ có nợ nần với phe mà đã giúp ông ta.

 Thông thường vua, trước khi mất, đề cử người kế vị. Nhưng điều này để ngỏ khả năng là sự lựa chọn của vua sẽ chịu tác động bởi một phe hùng mạnh trong cung đình.
 
Ralph B. Smith

Không lạ gì khi thỉnh thoảng một vị đại thần có thể kiểm soát hoàn toàn nhà vua và triều đình đến mức ông ta có thể tự lập triều đình mới. Còn nếu như không thể làm đến mức như vậy, một gia đình như họ Trịnh vẫn có thể là vua không ngai ở Việt Nam. Như vậy những sự thay đổi triều đại đồng nghĩa việc chuyển giao quyền lực hoàng gia từ một phe này sang phe khác, mà giữa các phe không có quan hệ máu mủ với nhau – ngoại trừ việc người tiếm quyền có thể kết hôn với vợ hay con gái của vị vua bị lật đổ. Một sự thay đổi như thế được biện hộ bằng quan niệm Nho giáo về ‘Thiên mệnh’.

Quan niệm về tính chính thống ở Anh có gốc rễ từ một khía cạnh căn bản hơn nữa trong văn hóa chính trị của nước này: quan niệm về luật pháp. Niềm tin vào luật pháp là thành tố căn bản của tư duy chính trị và thiết lập định chế ở châu Âu thế kỷ 15, 16. Nó đặc biệt mạnh mẽ ở Anh, nơi quan niệm này từ lâu đã gắn chặt với ý niệm về cộng đồng.

Khi một người Anh nói về luật pháp, anh ta trước tiên muốn nhắc đến thông luật (luật phát triển từ các phong tục cổ xưa) chứ không phải luật dân sự hay luật tôn giáo của Rome. Nhà vua được mong chờ sẽ cai trị bằng luật pháp.

Quan niệm luật pháp
Người Việt Nam, giống như Trung Quốc, có một quan niệm khác về luật pháp, hay nói đúng hơn, họ phân biệt ba quan niệm mà hơi khác ý niệm về luật của Anh. ‘Pháp’ là đạo dụ của vua, và nó không thể ràng buộc vua giống như luật ở Anh.

‘Hình’, danh sách các hình phạt áp đặt cho tội nhân, cũng không ràng buộc vua vì nó không bao hàm hình phạt cho các tội danh mà vua có thể phạm phải.

‘Lễ’ là nguyên tắc về công bình và hài hòa cùng trời đất áp dụng cho mọi người, nhưng ‘lễ’ không xuất hiện trong một điều khoản luật pháp cụ thể. Vua có thể được đánh giá căn cứ theo lễ, nhưng các thần dân của ông không có phương tiện gì để buộc vua phải cai trị theo lễ.

Nguyễn Trãi
Thời Lê Thánh Tôn mới trọng dụng lớp nho sĩ có tư tưởng như người đi trước là Nguyễn Trãi

Nếu quan niệm Thiên chúa giáo về chế độ quân chủ quy định vua phải trị vì theo luật pháp đúng đắn, thì quan niệm của Nho giáo cho rằng vua cần cai trị thông qua việc bổ nhiệm các quan chức tốt.

Có thể lấy ví dụ minh họa sự khác biệt giữa hai quan niệm này nếu ta so sánh sự ‘Nho giáo hóa’ Việt Nam dưới thời Lê Thánh Tôn và ‘thời Cải cách’ (Reformation) dưới thời Henry VIII. Những cải cách của Lê Thánh Tôn cũng là chiến thắng cho một lớp nho sĩ (quân tử) trước giới đại thần (vốn chế ngự triều Lê từ lúc mới lập quốc). Giới đại thần, đa số có nguồn gốc từ Thanh Hóa, là các tướng lĩnh; trong khi giới nho sĩ, thường là dân cư đồng bằng Bắc Bộ, là các học giả mà nhờ các kì thi Nho học mới có thể tiến thân trong triều.

Phương pháp tuyển lựa quan chức qua các kì thi Nho học đã có ở Việt Nam từ thế kỷ 13. Nhưng trong thời Trần (1225 – 1400), các nho sĩ chiếm vị trí tương đối không quan trọng, còn các đại thần thông thường là hoàng thân nhà Trần.

Vào cuối thế kỷ 14, giới nho sĩ trở nên quan trọng hơn một chút, khi hệ thống thi cử được cải cách cho phép một số ít các thí sinh có thể lên các chức vụ cao hơn. Trong thời thuộc Minh (1407-1427), Nho học nói chung được khuyến khích, đặc biệt ở Đông Kinh. Nhưng chiến thắng của Lê Lợi đồng nghĩa sự thoái trào cho lớp nho sĩ, những người chỉ sau đó mới dần dần tái xác lập ảnh hưởng trong thế kỷ 15.

Cho đến năm 1460, dưới sự bảo trợ của Lê Thánh Tôn, lớp nho sĩ mới có được sự nổi bật cho phép họ cải tổ chính quyền theo các nguyên tắc Nho giáo. Họ tìm cách đưa hệ thống thi cử trở thành phần thường trực trong đời sống quốc gia, và mô hình thi cử ba năm một lần tại kinh đô được thiết lập năm 1463 và kéo dài đến hết thời nhà Mạc. Bằng cách này, Lê Thánh Tôn bảo đảm rằng đất nước sẽ được trị vì bởi những người có học thức theo Nho gia, trong lúc giới quân đội đóng vai trò nhỏ bé hơn.

Vua Henry VIII

Tại Anh, các cải cách của vua Henry VIII, với sự giúp đỡ của Thomas Cromwell, cũng nhấn mạnh đến một trật tự nhà nước tốt; nhưng đó là một trật tự dựa trên luật pháp. Phong trào Cải cách (Reformation), phần nào đó, là một sự phản ứng chống lại chính sách của Hồng y Wolsey (nắm quyền từ 1515 – 1519). Wolsey có khuynh hướng chuộng sự chuyên quyền, và chế độ cai trị của ông mang bản sắc cá nhân rõ rệt. Điều này gặp phản ứng từ những người chống đối, và thập niên 1530 chuyển sang nhấn mạnh pháp lý và việc ban hành chính thức luật thành văn.

Cromwell hoan nghênh việc dùng Quốc hội để tạo ra một cuộc cách mạng pháp lý. Có người đã cho rằng Quốc hội Anh, với tư cách một cơ quan lập pháp, được thành lập từ quốc hội thời Cải cách 1529-1536. Cromwell cũng đem lại các thay đổi trong việc cai trị để lần đầu tiên trong lịch sử Anh có việc tạo ra một bộ máy hành chính được hệ thống hóa, đối lập với kiểu chính quyền của hoàng gia.

Những khía cạnh này của phong trào Cải cách tái khẳng định sự quan trọng của thông luật. Vào lúc nước Anh chuẩn bị trải qua một thay đổi chính trị và thể chế để đáp ứng các thay đổi trong nước và ở châu Âu, những cải cách của Cromwell bảo đảm rằng trong hai thế hệ kế tiếp, những thay đổi khi xảy ra sẽ theo hướng sự độc lập của Quốc hội.

Vạn Lý Trường Thành
Những cải cách của thời Lê đem lại thịnh trị nhưng cũng đưa Việt Nam gần hơn với Trung Quốc

Yếu tố pháp luật cũng đi vào một khía cạnh khác của phong trào Cải cách, tức là sự khẳng định quyền lực của vua trong các vấn đề tinh thần và chấm dứt uy quyền của Giáo hoàng ở Anh. Điều này tạo nên sự sụt giảm trong vị trí và tính độc lập của giới tăng lữ.

Nhìn theo khía cạnh này, những thay đổi trong thập niên 1530 gần như tạo nên hiệu ứng khác với những cải cách của Lê Thánh Tôn. Chúng chấm dứt mối liên hệ tinh thần giữa Anh và Rome, và giảm quyền lực của giới tăng lữ trong các vấn đề quốc gia. Tại Việt Nam, ngược lại, ‘sự Nho giáo hóa’ của Lê Thánh Tôn lại củng cố sự ràng buộc với Trung Quốc và gia tăng ảnh hưởng của giới nho sĩ (tức là nhóm có khuynh hướng tìm cảm hứng từ Trung Quốc). Những thay đổi trong thập niên 1460 và 1470 đưa Việt Nam đến gần hơn mô hình Trung Hoa.

.....................................................................................................................

 
 
Tên
Họ*
Thành phố
Nước
Điện thư
Điện thoại*
* không bắt buộc
Ý kiến
 
  
BBC có thể biên tập lại thư mà vẫn giữ đúng nội dung ý kiến và không bảo đảm đăng mọi thư gửi về.
 
CÁC BÀI LIÊN QUAN
Vấn đề phe nhóm trong lịch sử Anh - Việt
26 Tháng 5, 2004 | Văn hóa & Xã hội
Lịch sử Anh - Việt: Một chút so sánh
24 Tháng 5, 2004 | Văn hóa - Thể thao
Một cái nhìn về lịch sử Campuchia
12 Tháng 1, 2004 | Văn hóa & Xã hội
Sự hình thành cơ cấu chính trị Đại Việt
22 Tháng 1, 2004 | Văn hóa & Xã hội
Chuyển giao quân sự:Trường hợp nhà Nguyễn
19 Tháng 2, 2004 | Văn hóa & Xã hội
Công nghệ quân sự TQ và Đại Việt
11 Tháng 2, 2004 | Văn hóa & Xã hội
TIN MỚI NHẤT
 
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
 
   
 
BBC Copyright Logo ^^ Trở lại đầu
 
  Trang chủ| Thế giới | Việt Nam | Diễn đàn | Bóng đá |Văn hóa | Trang ảnh |
Chuyên đề| Learning English
 
  BBC News >> | BBC Sport >> | BBC Weather >> | BBC World Service >> | BBC Languages >>
 
  Ban Việt ngữ | Liên lạc | Giúp đỡ | Nguyên tắc thông tin cá nhân