![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Trách nhiệm của người phóng viên | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Dennis Bloodworth (1919-2005) là phóng viên vùng Viễn Đông của báo Anh The Observer, với phần lớn sự nghiệp tường thuật về Trung Quốc và Đông Nam Á, trong đó có cuộc chiến Việt Nam. Ông là phóng viên Anh đầu tiên được cho phép đến Trung Quốc thời Mao Trạch Đông (1955), và khi tổng thống Nixon đến Trung Quốc năm 1972, Nixon được nói là đã mang theo tập sách Chinese Looking Glass của Bloodworth. Là bạn thân của ông Lý Quang Diệu, Bloodworth được thủ tướng họ Lý mời làm người hiệu đính tập một quyển hồi ký The Singapore Story của ông. Trong buổi hỏa táng Dennis Bloodworth tháng Sáu năm nay, cựu thủ tướng Lý Quang Diệu, 82 tuổi, cũng đến dự lễ. Đến Sài Gòn năm 1954 khi cuộc chiến Đông Dương vừa kết thúc, Bloodworth trong nhiều năm đã tường thuật về các diễn biến ở Việt Nam. Ông đã tiếp xúc cả với những nhân vật cao cấp của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, và ăn cơm chung với thủ tướng Phạm Văn Đồng và gặp chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Trong quyển hồi ký The Reporter's Notebook (Sổ tay phóng viên) ấn hành năm 1988, Dennis Bloodworth xen lẫn những hướng dẫn về nghề báo với các hồi ức lịch sử mà ông từng trải qua ở châu Á. Dưới đây là trích đoạn phần Dennis Bloodworth viết về mối quan hệ giữa nhà báo và các chính phủ tại châu Á: Người phóng viên phải biết đủ nhiều để nhận ra sự giả mạo, và phải tránh quá háo hức để bất kì kẻ vụ lợi chính trị nào cũng không thể bán cho anh một chuyện ngụy tạo. Một lời trích dẫn cần có thêm một lời khác, và nếu anh là phóng viên ngay thẳng, anh có thể cân bằng sự khoe thành tích của chính phủ với lời phàn nàn của phe đối lập. Nếu anh ký tên bài báo và có thể bình luận, anh có nhiệm vụ xé toang lớp vỏ trang trí của mọi tuyên bố chính trị và lạnh lùng phân tích bản chất đằng sau đó. Vì những hành vi khó chịu này mà các chính phủ gọi báo chí là "thù địch", sẵn sàng quên đi rằng cần có hai người để tranh cãi về chuyện không đâu, chứ chưa nói về sự thật. Phải trải qua thì mới biết chuyện. Khi lần đầu tiên được phỏng vấn trên tivi, tôi cảm thấy mình như một kẻ tra vấn Gestapo đã rơi vào tay KGB, và không dám mở miệng - trong khi một bà nội trợ bị chặn giữa đường sẽ bình tĩnh nhìn vào camera và trả lời những câu hỏi khiêu khích nhất mà thường không cần suy nghĩ. Khi tôi tự tổ chức họp báo năm 1986 sau 35 năm đứng ở phía bên kia bục nói chuyện, tôi thấy mình đang bị tra vấn bởi 20 công tố viên. Và tôi gần như có thể thông cảm với các lãnh đạo chính trị như Lý Quang Diệu, người đôi khi có vẻ nhìn báo chí giống như cách người khác nhìn một cách coi thường trước việc sửa ống nước thô sơ. Năm 1972, ông Lý bình phẩm: "Tôi đọc tin về các học sinh thông minh theo ngành kỹ sư, khoa học, y khoa, kinh tế, vân vân. Khi họ không tìm được việc tốt, họ mới chuyển sang làm nghề phóng viên." À, nhưng còn từ nghề phóng viên, thì họ chuyển sang làm gì? Tại Singapore khi ấy, Bộ trưởng ngoại giao, Bộ trưởng các vấn đề xã hội, Bộ trưởng văn hóa, Bộ trưởng văn phòng chính phủ, đều từng là các phóng viên chuyển sang làm chính trị. Burke gọi báo chí là "Đệ tứ quyền, quan trọng hơn tất cả cộng lại." Thật ngạc nhiên khi ông Lý có vẻ quên chi tiết này, khi ông có một đoàn tùy tùng như thế. Chính phủ của ông luôn bao gồm một nhóm các phóng viên, nhưng ngay từ đầu, họ bày tỏ một sự không hiểu biết có tính toán về nghề của mình. Các bộ trưởng la trời khi lời nói của họ không được in đầy đủ đến từng từ. Các phóng viên nước ngoài bị coi thường như là người đơn thuần copy bài viết của báo địa phương rồi gửi cho chủ bút ở nước ngoài. Nếu một phóng viên hỏi một câu tại buổi họp báo mà ông Lý đã trả lời một tuần trước đó, thủ tướng sẽ nói: "Tại sao anh không đọc diễn văn của tôi? Tôi sẽ không phí thời gian nhắc lại những gì tôi đã nói." Tuy nhiên, không có vị cựu chủ bút và phóng viên nào trong đoàn của ông chỉ ra rằng diễn văn tuần rồi là tin của tuần rồi, và một hạn đăng bài mới đòi hỏi một sự tái khẳng định (hoặc nếu may mắn, một sự phủ định) của điều ông đã nói trước đó. Do các phóng viên nước ngoài ngoan cố chỉ gửi bài về những gì họ xem là thích đáng, các lãnh đạo châu Á thường coi họ là các điệp viên của một âm mưu bất chính muốn lật đổ xã hội mà các chính phủ này cố gắng tạo dựng. Những gì họ cần từ báo chí là những bài báo có ích và "tin vui" không gây ra bất mãn và làm nhà đầu tư lo ngại, "đóng góp cho sự ổn định." Các nhà lãnh đạo ở Malaysia và Singapore nói báo chí không được bầu lên, và vì thế vai trò tự phong như là người canh gác quốc gia là một sự khinh suất. Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ những người đã được nhân dân gửi gắm niềm tin ở phòng bỏ phiếu - tổng thống, quốc hội, đảng và chính phủ phải hướng dẫn báo chí trong lúc hướng dẫn đất nước. Bị cáo buộc là họ gây khó dễ cho báo chí, các chính trị gia châu Á biện minh cho việc hạn chế tự do báo chí bằng cách nói rằng chẳng làm gì có một thứ tự do như thế. Truyền thông luôn bị kiểm soát và hướng dẫn, dù là bởi ông chủ, nghiệp đoàn, đảng phái hay chủ bút. Đây là lý luận của thủ tướng Malaysia, Mahathir Mohammad, người vào năm 1986 cáo buộc báo giới nước ngoài tìm cách gây bất ổn cho Malaysia. "Nhiều xuất bản phẩm quốc tế nổi tiếng bị người Do thái kiểm soát, những người hiện đang là công dân ở các nước Tây phương," ông lấy ví dụ. "Các tờ báo nước ngoài này bị Do thái kiểm soát còn hơn là chính phủ kiểm soát báo chí Malaysia." Lý luận như vậy là muốn xoay ngược sự thật. Sự kiểm soát truyền thông của các tài phiệt, nghiệp đoàn, đảng phái và chủ bút tự thân nó là sự biểu hiện của nguyên tắc dân chủ tự do cho tất cả, trong khi sự kiểm soát bởi chính phủ là mặt đối lập lại. Một phóng viên vùng Viễn Đông của một tờ báo Anh bị kẹt giữa tình thế khi hai đối tác - chính phủ và truyền thông - luôn đánh nhau hoặc thông đồng. Anh phóng viên cũng bị níu kéo giữa người ở địa phương và London. Lãnh đạo địa phương đòi sự tế nhị, biên tập viên ở London đòi sự thật, và hai bên không gặp nhau. Nhưng phóng viên không thể bỏ qua khí hậu ở vùng nhiệt đới. Phóng viên phải tuân thủ quy tắc ở hiện trường, chứ không phải những nguyên tắc xa lạ của các ông chủ ở phần bên kia địa cầu. Bị kẹt giữa hai bên, thực tế, người phóng viên có thể bị cả hai bắn bỏ. Nhưng anh ta vẫn có thể nhận chân được đúng sai. Và ở đó là câu trả lời cho thế tiến thoái lưỡng nan của anh. Xu nịnh thì không kéo dài được lâu. Ông Lý Quang Diệu, khi giải thích vai trò không được ưa chuộng của ông ở Singapore, luôn nói ông không nhận việc để được người khác ưa thích. Có lẽ ông không nhận ra rằng điều này cũng có thể nói về nhà báo, vốn chỉ được chính phủ ưa khi anh ta viết điều họ muốn. Nhưng đó không phải là lý do để phóng viên mãi mãi bới lông tìm vết về họ. Có những lúc anh cảm thấy các chính trị gia đúng và báo chí sai, và anh phải nói ra như thế. Trong những tình huống mâu thuẫn (đa số trong đời là ở dạng này), anh chỉ có một điều để làm - đánh giá từng trường hợp cụ thể, và viết những gì lương tâm đòi hỏi. Điều này đôi khi khiến anh phải nói ngược lại với mình trong bài này so với bài khác, ca ngợi hôm thứ Ba trong khi mới hôm thứ Hai còn phê phán. Các bên sẽ hỏi anh "Anh thuộc về phe nào?" Tốt nhất là chẳng thuộc về ai. Sự khách quan không khiến người phóng viên bỏ đi sự đánh giá, nhưng nó không phải lúc nào cũng dễ dàng. Đối diện với sự thảm sát của Pol Pot, phóng viên có thể để các dữ kiện tự nói thay cho sự phẫn nộ của anh. Nhưng kịch bản ít khi nào đơn giản như vậy. Làm sao anh có thể trung dung khi sự thông cảm của anh thuộc về một trong hai khía cạnh chính đáng của câu chuyện? Tôi nghĩ rằng câu trả lời là hãy tìm hiểu động cơ của khía cạnh còn lại, và cho họ thời gian và không gian họ đáng được có. Một phóng viên chống Cộng có thể nhìn ngờ vực khi một Sihanouk "trung lập" cho phép hàng hóa chuyển qua Campuchia cho người Việt Cộng trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng anh phải thừa nhận rằng Hoàng thân về bản chất là một người ái quốc, người nghĩ rằng ông chấp nhận một phe ít xấu hơn để đổi lấy an ninh cho đất nước yếu ớt của mình. Nếu phóng viên công bằng, anh có thể gây ra thịnh nộ cho người liên quan, nhưng cũng có thể giành được sự tôn trọng. Sau khi chỉ ra những lỗ hổng trong bài báo phê phán của tôi, Sihanouk gửi tôi một lá thư ngắn lịch sự tháng Tư năm 1965 rằng ông cảm kích vì một lá thư tôi gửi cho ông giải thích bài của mình. Và tám tháng sau, ông gửi cho tôi bức điện: "Cảm ơn anh vì sự khách quan anh đã thể hiện đối với đất nước tôi..." |
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||