21 Tháng 10 2005 - Cập nhật 18h03 GMT
Từ khoảng 20 năm nay, ngôi đền Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc đã trở thành một trong các địa điểm hành hương lớn nhất mỗi năm ở Việt Nam.
Quyển sách, Goddess on the Rise: Pilgrimage and Popular Religion in Vietnam (2004), của Philip Taylor, lấy hiện tượng này làm chủ đề nghiên cứu.
Làm việc ở Đại học Quốc gia Úc với quan tâm nghiên cứu về miền Nam Việt Nam, Philip Taylor lấy tư liệu cho cuốn sách thông qua các chuyến đi điền dã đến Việt Nam từ 1995 đến 1998.
Dưới đây là bài điểm sách của Charles Keyes, giáo sư môn Nhân học (Anthropology), Đại học Washington, đăng trên The Asia Pacific Journal of Anthropology, tháng 12-2005.
Vào tháng Sáu 2005, sau khi kết thúc loạt bài nói chuyện ở Hà Nội về tôn giáo và tính hiện đại ở Viện Nghiên cứu Văn hóa (trước đây là Viện Văn hóa Dân gian), một học giả lớn tuổi ở viện hỏi tôi rằng liệu tôi có nghĩ những hành vi dính líu việc thờ nữ thần, Thánh Mẫu ở Việt Nam nên được phân loại là ‘tôn giáo’ hay không.
Tôi nhận thức rất rõ rằng những thính giả của tôi ở Hà Nội bao gồm các nhà nghiên cứu Việt Nam, những người có nhiều nghiên cứu và bài viết về sự tái trỗi dậy của việc thờ các nữ thần ở Việt Nam.
Các nhà dân tộc học và văn hóa dân gian như những vị ở Viện Nghiên cứu Văn hóa, mà Taylor có ghi nhận trong sách của mình, đã diễn giải sự phổ biến của tục thờ Thánh Mẫu theo những thuật ngữ mang tính dân tộc chủ nghĩa về văn hóa, hơn là có tính chất tôn giáo. Họ thấy ở sự phổ biến của tục thờ này, như Taylor có viết, "những dấu hiệu rõ rệt của sự trường tồn của truyền thống và bản sắc văn hóa của đất nước."
Trong cuốn sách của mình, Taylor thách thức sự diễn giải này. Nghiên cứu của ông tập trung vào việc thờ phụng Bà Chúa Xứ, với ngôi đền chính đặt ở Châu Đốc. "Kể từ đầu thập niên 1990, ngôi đền thờ bà đã trở thành địa điểm tôn giáo có nhiều người hành hương nhất ở miền Nam, với hơn một triệu khách mỗi năm" (trang 3).
Như nhiều nữ thần khác ở Việt Nam (Taylor dẫn một nguồn của Việt Nam nói xác định tổng cộng con số 75), Bà Chúa Xứ vừa là một vị thần được địa phương hóa cao độ, và đồng thời là trung tâm của việc thờ phụng vượt ra khỏi phạm vi địa phương, và thậm chí quốc gia (nhiều tín đồ là người gốc Việt đang sống ở Mỹ và các nơi khác).
Để hiểu vì sao nữ thần này được kính ngưỡng, Taylor xem xét lịch sử và cách viết sử về tục thờ các nữ thần ở Việt Nam (chương 4), quan hệ giữa tục thờ mẫu thần với tục thờ các anh hùng dân tộc, anh hùng cách mạng và tử sĩ (chương 7), và việc thờ Phật (chương 8), Taylor thấy việc thờ các nữ thần phổ biến ở miền Nam hơn các nơi khác trên đất nước.
Tại miền Nam, các nữ thần "có sức thu hút hơn so với đa số các biểu tượng của chế độ Cộng sản", và bởi tính mơ hồ cố hữu của họ, nên các vị thần này ít gắn với các nghị trình chính trị hơn khi so với các vị thần được nhà nước khuyến khích.
Taylor cho rằng tục thờ nữ thần phát triển ở miền Nam một phần là vì tại miền Nam, các hành vi tôn giáo bộc lộ ảnh hưởng mạnh từ các nhóm tộc người phi Việt – đặc biệt là người Hoa, Chàm và Khmer. Những nhóm này có nét khu biệt hơn ở miền Nam so với các nhóm ở miền Bắc vì miền nam chỉ mới hòa nhập vào đế chế Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỷ 15 – 19.
Quan trọng hơn, theo Taylor, còn là những thay đổi kinh tế xã hội ở miền Nam mà đã xảy ra nhanh hơn so với các vùng khác. Miền Nam Việt Nam là "khu vực thương mại năng động nhất của đất nước, một nơi mà quan hệ thị trường phát triển cao, các giao dịch tiền tệ và quan hệ tín dụng bắt rễ sâu, và thương mại, đầu tư, gửi tiền ở mức cao."
Sự năng động kinh tế của miền Nam là sản phẩm của một lịch sử kinh tế – chính trị riêng biệt. Miền Nam là một phần của Đông Dương, nơi các nhà tư bản Pháp có đầu tư lớn nhất; nơi này hòa nhập vào kinh tế toàn cầu nhiều hơn miền Bắc trong giai đoạn nó là một phần của Việt Nam Cộng hòa (1954-75); và dòng gửi tiền, đầu tư của người Việt sống ở nơi khác chủ yếu dồn vào miền Nam.
Các nữ thần "là biểu tượng cho những quan hệ thị trường" bởi vì, theo Taylor, sự thờ phụng họ "dựa trên quan hệ giao dịch (transaction-based), và bao hàm những mối quan hệ thân mật với một vị thần, mà quan hệ ấy chịu ảnh hưởng của sự qua lại và những kết quả mang tính chất thương lượng với nhau." Những mối quan hệ ấy đặc biệt hấp dẫn đối với các phụ nữ thành thị, những người đã ở tuyến đầu trong công cuộc biến đổi kinh tế ở miền Nam.
Mặc dù sự diễn giải này giải thích thuyết phục vì sao tục thờ nữ thần ở miền Nam lại phát triển như thế kể từ giữa thập niên 1980, khi thay đổi trong chính sách nhà nước bắt đầu thúc đẩy việc hòa nhập kinh tế Việt Nam vào hệ thống tư bản toàn cầu, nhưng sự giải thích này lại khiến khó có thể đưa ra câu trả lời tích cực cho câu hỏi mà tôi được hỏi ở Hà Nội – liệu tục thờ mẫu thần có thể được hiểu là "tôn giáo" hay không?
Các nhà Marxist Việt Nam và những trí thức thế tục khác từ lâu đã phân biệt "tôn giáo" với "mê tín".
Trước thập niên 1980, Đảng đã tìm cách trấn áp các hoạt động ấy – xem bói, thờ phụng – vốn bị coi là mê tín dị đoan. Taylor sử dụng một định nghĩa về tôn giáo mà làm sụp đổ sự phân biệt này: "Các định hướng (orientations) tôn giáo ở Việt Nam có thể hiểu như là những phản ứng trước các lo toan hiện sinh như cái chết, bệnh tật, mất người thân HOẶC như những cách thể hiện sự khác biệt về vị trí, giới tính, thế hệ hay sắc tộc." (chữ 'hoặc' được người điểm sách in đậm).
Như tôi có nói ở Hà Nội để trả lời câu hỏi được đặt cho mình, tôi nhấn mạnh rằng cần duy trì một sự phân biệt giữa các định hướng tìm về các cách đương đầu các vấn đề tối thượng như cái chết, bể khổ và các định hướng tìm về các nguồn sức mạnh mà có thể được dùng để giải quyết các lo toan thực tế.
Bản thân Taylor gặp phải một lý luận tương tự từ nhiều Phật tử mà ông phỏng vấn. Một vị ni cô trẻ xác quyết rằng "Bà Chúa Xứ là sự mê tín". Taylor quan sát thấy rằng "với vị ni cô này, mê tín đơn giản nghĩa là những gì nằm ngoài Phật giáo. Nó không có nghĩa là nó sai lạc." Theo ngôn từ Phật giáo, việc thờ các nữ thần hoàn toàn khác với các hành vi tôn giáo giúp con người tìm ra cách để vượt qua bể khổ, hay ít nhất là chịu được khổ đau.
Các tôn giáo có vi ̣trí – Phật giáo, Thiên Chúa giáo, và gần đây hơn là Tin Lành – được xem là có nhiều đe dọa với nhà nước Việt Nam hơn là các hành vi "mê tín" này. Bởi vì tục thờ nữ thần có thể được gán cho một sự diễn giải mang tính chất văn hóa dân tộc, nó đã được cho phép nở rộ ở Việt Nam.
Nghiên cứu phong phú của Taylor cho thấy vì sao các điều kiện kinh tế xã hội của xã hội miền Nam đã dẫn đến sự nở rộ này.