![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Độc giả Quốc Huy góp ý chủ đề Hồ Chí Minh | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Độc giả Quốc Huy có thư tranh luận với độc giả Hưng Đạt, Moscow, quanh chủ đề Hồ Chí Minh: Đọc bài của bạn Nguyễn Hưng Đạt từ Matxcơva, tôi góp ý với bạn như sau: Vài dòng dẫn chứng bạn nêu ra là quá ít ỏi có thể gây hiểu lầm rằng ông Hồ không quan hệ với phụ nữ. Rất nhiều nhà nghiên cứu và nhân chứng đã xác nhận ông Hồ quan hệ với phụ nữ, mà thực ra có cả chi tiết nằm ngay trong phát hiện của bạn nhưng được liên hệ theo khía cạnh khác: “Nguyễn Ái Quốc theo tôn giáo nào?... Nguyễn Ái Quốc là người Catholic. Chúng tôi giao du với nhau, nhiều lần gặp nhau khi đi lễ Nhà thờ”. Tại sao một người CS chịu ảnh hưởng nặng của Khổng giáo, Nho giáo... như ông Hồ lại có thể dễ dàng chấp nhận tôn giáo của thực dân phương Tây? Chỉ vì ơn nghĩa thôi sao, điều đó không tác động nhiều đến ông và thực tế rất nhiều ân nhân sau này bị ông coi là kẻ thù. Theo tác giả Hoàng Tranh, tháng 5.1950, thấy hình và tiểu sử Hồ Chí Minh đăng trên Nhân dân nhật báo, bà Tăng Tuyết Minh đã báo cáo với tổ chức và gửi mấy bức thư cho ông Hồ nhờ Đại sứ tại Bắc Kinh (bấy giờ là Hoàng Văn Hoan) chuyển. Nhưng không có trả lời. Một cán bộ đã đến gặp bà, đưa bằng cớ HCM đúng là chồng bà, ngày trước mang tên Lý Thuỵ, nhưng lại giải thích tại sao “không tiện liên lạc” và mong bà “lượng thứ”, “yên tâm công tác”. Vẫn theo Hoàng Tranh, năm 1960, ông HCM đã nhờ lãnh sự VN tại Quảng Châu tìm tung tích TTM nhưng cũng không thấy kết quả gì. Được biết bà TTM làm nghề hộ sinh, gia đình theo đạo Công giáo từ đời ông nội, bà “thường xuyên đi lễ” và có thói quen “ăn uống đạm bạc, không dùng thịt cá”, “luôn vui vẻ giúp người”. Chính các nghi lễ tôn giáo trong hôn nhân mới ràng buộc ảnh hưởng đến ông Hồ, yếu tố này thuyết phục hơn cả. Nhận xét ông Hồ là ''người trung thực, dám nhận lỗi” để phủ nhận quan hệ của ông với phụ nữ chắc chắn hoàn toàn do cảm tính. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng khả năng nổi bật nhất của ông Hồ mà theo cách gọi bóng bẩy của Đảng chính là sự mưu trí, khôn khéo, còn bên đối lập thì gọi thẳng ra là sự giả mạo, thủ đoạn và rất ngán ông ở mặt này. Có quá nhiều tài liệu về những chuyện như vậy. Ông Hồ là người chuộng hoà bình và dân tộc chủ nghĩa? Điều này có phần đúng khi HCM còn tham gia và chịu ảnh hưởng của nhóm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường... nhưng với bản chất là người háo danh và nóng vội, thậm chí kém cỏi về tư duy trừu tượng thì HCM tất yếu trước sau cũng lựa chọn con đường cực đoan. Ông Đạt viết: “Cái mà chúng tôi thiếu để trở thành cộng sản là những điều kiện cơ bản nhất để hành động: Tự do báo chí. Tự do du lịch. Tự do dạy và học. Tự do hội họp (tất cả những cái này đều bị những kẻ khai hoá thuộc địa ngăn cấm chúng tôi một cách dã man)”, thật khó mà hình dung cái gì đó có thể đơn giản hơn: có tự do mới có thể thành cộng sản, còn không có tự do thì sao? Niềm tin của ông về cái mà ông gọi là “chủ nghĩa cộng sản” dường như quá dễ dãi đến kỳ lạ: "Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Ðông thì không thể nào sai được". Ông Đạt rất tâm đắc: “Ở nước ta và ở TQ cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái ‘cẩm nang’ đầy phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải quyết...” Như vậy đối với ông Hồ thì tự do, độc lập, dân tộc... chỉ là môi trường và điều kiện hành động cụ thể cho: mục đích, phươn! g pháp đạt mục đích và con đường đi tới mục đích là CNXH và CNCS. Vậy có thể tin tưởng giả thuyết rằng trước 1945 cách mạng vô sản thành công ở Pháp thì sẽ không có cái gọi là “chiến tranh giải phóng dân tộc” bởi vì mục đích là CNXH và CNCS đã đạt được, thực tế cũng chứng minh rằng không có nước cộng sản nào tự nguyện trao trả độc lập cho các dân tộc bị nó thôn tính. Ông Hồ bắt tay với ông Diệm vì lợi ích dân tộc? Có quá ít tiến bộ và thành công trong việc “bắt tay” nên mọi suy luận về sau chỉ mang tính dự đoán nhằm thoả mãn những nuối tiếc không thực tế mà thôi. Tìm hiểu về HCM trước khi liên hệ với ông Diệm thì ông Hồ đã là một đảng viên CS xác tín, cố tình che dấu điều này không có nghĩa chứng tỏ ông sẵn sàng từ bỏ nó vì lợi ích dân tộc. Trước đó ông Hồ luôn thanh minh rằng ông chỉ là người yêu nước thuần tuý chứ không phải CS và ông đã lợi dụng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (về sau này gọi tắt Việt Minh) là một tổ chức chính trị có sẵn từ năm 1936 (do Hồ Học Lãm một nhà yêu nước VN có chân trong Quốc Dân Đảng TQ lập ra ở Nam Kinh) để dễ bề hoạt động. Sau năm 1945 chính phủ HCM bao gồm nhiều đảng phái: Dân Chủ, Xã Hội, VN Độc lập đồng minh hội, Quốc dân đảng. Trong chính phủ không có tên đảng CS Đông Dương. Đảng này đã được HCM báo với tướng Trần Tu Hoà, đại diện Tưởng Giới Thạch, là đã “tự động giải tán”...Thực chất đây là sách lược những bước thụt lùi tạm thời, những nhân nhượng có tính toán được “vận dụng” bởi nhân vật từng coi Lênin là thần tượng. Sau này HCM cho biết thực chất việc tự giải tán đảng CSĐD chỉ là rút vào bí mật: “Đảng phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn, và để có thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất. Lúc đó Đảng không thể do dự. Do dự là hỏng hết, Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng những phư! ơng ph p - dù là những phương pháp đau đớn - để cứu vãn tình thế”. Và HCM viện dẫn Lênin khi bị chỉ trích thoả hiệp với Pháp năm 1946: “Lênin có nói rằng: Nếu có lợi cho cách mạng thì dù phải thoả hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thoả hiệp”. Tức là không nên bám vào một phương thức nào mà phải tuỳ theo sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa “ta” và “địch”... đó là “Dĩ bất biến ứng vạn biến” mà ông Hồ rất thích nói đến. Bạn Hưng Đạt nên tìm đọc “Phiến cộng trong Dinh Gia Long” của nhà sử học Chính Đạo - Vũ Ngự Chiêu để hiểu thêm động cơ liên hệ giữa ông Diệm và ông Hồ. Ông Hồ được coi là “thánh” như thế nào? Đoạn văn sau đây trong sách của Trần Dân Tiên (tức HCM): “Ông có biết anh Ba hiện nay thế nào không? - Không, tôi rất tiếc là tôi không biết. - Ông có muốn tôi nói cho ông biết không? - Còn gì bằng nữa! - Ông quay lại xem, anh Ba ấy đây kìa! Tôi vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ Chủ Tịch treo trên bàn thờ giữa những bình hoa, bình hương, đèn nến”. Còn vô số bằng cớ khác nhưng xét thấy không cần phải dẫn chứng thêm, chính ông Hồ đã tự phong mình là “thánh”, là “cha già của dân tộc”, là “bác”... Ai đó còn tôn xưng ông Hồ là “thánh” bởi vì họ chưa biết sự thật về ông, còn nếu biết rồi mà vẫn gọi là “thánh” thì chắc họ đang có nhu cầu tinh thần tiêu khiển một thú chơi nào đó. Dựa vào sự thiếu hiểu biết của ông Hồ về Mác, Lênin để bao biện ông là người dân tộc chủ nghĩa, không yêu CS mà yêu nước chỉ làm méo mó một nhân vật lịch sử đã tin tưởng mù quáng CS. Cho rằng không còn lựa chọn nào khác ngoài bạo lực cách mạng để giành độc lập dân tộc chỉ là nguỵ biện cho sự ngu dốt, cộng sản Ấn Độ đã không phạm sai lầm này. Di sản ý nghĩa nhất mà ông Hồ để lại cho dân tộc, nghèo nàn thay lại là “bảo quản” nguyên vẹn nội dung “Yêu sách tám điểm” mà nhóm nhân sỹ yêu nước của cụ Phan Chu Trinh đã soạn ra cách đây gần một thế kỷ. Chỉ có khác là ông Hồ đã đặt thế hệ đi sau ông vào một vị thế khó khăn hơn ông ngày trước rất nhiều. Nó không phải là chính đảng cộng sản Pháp ở châu Âu hoạt động trong lòng một c! hế độ dân chủ, mà là những con người đơn lẻ đang đấu tranh với một bộ máy độc tài toàn trị, mà ngồi ở vị trí cai trị của những tên thực dân xưa kia chỉ là những kẻ thuộc chủng tộc khác, màu da khác nhưng có cùng một sự suy đồi. Gạt đi sự lãng mạn của ngôn từ thì ông Hồ vẫn là người phải chịu trách nhiệm về cái chết của hàng triệu nạn nhân chiến tranh, chịu trách nhiệm về sự tụt hậu văn minh của cả một dân tộc và trong vai trò môn đệ cộng sản thì ông là kẻ có tội. |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||