Skip to main contentAccess keys helpA-Z index
BBCVietnamese.com
chinese
russian
french
Other Languages
 
26 Tháng 1 2006 - Cập nhật 14h43 GMT
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
Phát triển và hội nhập phi dân chủ hóa?
 

 
 
Nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Cường
Nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Cường hiện sống tại Houston, Hoa Kỳ
Qua nỗ lực vận động gia nhập vào tổ chức mậu dịch thế giới WTO để nuôi dưỡng đà phát triển kinh tế, Việt Nam đã chứng tỏ quyết tâm hội nhập vào cộng đồng thế giới.

Do nhu cầu nói trên, Việt Nam đứng trước một lựa chọn quan yếu, vì nếu đi vào con đường hội nhập toàn cầu - với bước đầu là gia nhập tổ chức mậu dịch thế giới WTO - là chấp nhận tôn trọng quy luật của cộng đồng thế giới, và thỏa mãn những điều kiện để được tham gia vào sinh hoạt kinh tế và chính trị chung của thế giới. Gắn liền với ý nghĩa hội nhập toàn cầu là ý niệm một cộng đồng toàn cầu được hình thành với một tiếng nói phản ảnh quan điểm và chủ trương chung về những vấn đề xã hội; kinh tế và chính trị, như 'giá trị toàn cầu', và một 'trật tự dân chủ toàn cầu', nhắm vào mục tiêu chung là phát huy lý tưởng dân chủ trên thế giới để củng cố nền hòa bình cho nhân loại.

Kinh nghiệm dân chủ hóa thể chế tại Á châu trong vòng hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đã đưa đến một quan điểm hàn lâm theo đó, có một mối tương quan tích cực giữa phát triển và dân chủ hóa. Tuy nhiên, trong khi Ðài Loan, Nam Hàn và Phi Luật Tân đã vượt qua được ngưỡng cửa tiến đến một nền dân chủ đa nguyên, sau gần ba thập niên phát triển kinh tế, Việt Nam và một vài quốc gia Á châu đang trên đà phát triển kinh tế vẫn còn cố gắng duy trì một thể chế độc tài, và ngăn chặn những tiếng nói đòi dân chủ từ phía quần chúng. Thật vậy, trong khi Á châu mạnh bước trên đà hội nhập, đảng cộng sản cầm quyền tại Việt Nam và Trung Quốc vẫn nỗ lực duy trì độc quyền cai trị, mặc dầu dân chúng hai nước đã đạt được nhiều thành quả kinh tế đáng kể trong vòng trên hai thập niên qua. Thực trạng đó khiến cho nhiều người hoài nghi quan điểm cho rằng mối tương quan nhân quả giữa phát triển và dân chủ hóa là một tất yếu.

Giới cầm quyền tại Việt Nam và Trung Quốc - cũng như tại một số quốc gia Ðông Á còn duy trì thể chế toàn trị - hiện vẫn quan niệm phát triển kinh tế có thể được thực hiện dưới một chế độ chính trị hà khắc. Quan điểm đó dựa vào luận cứ cho rằng chỉ có một thể chế toàn trị mới có thể thi hành những biện pháp tái cấu trúc cần thiết để cho một nền kinh tế vượt thoát tình trạng trì trệ và chậm tiến. Họ chủ trương chấp nhận một chế độ hà khắc và toàn trị là cái giá phải trả để duy trì tình trạng ổn định xã hội cần thiết cho phát triển kinh tế. Cho đến nay tại Việt Nam, phản ứng chống đối chính sách ngăn cản chuyển biến chính trị của chính quyền vẫn chưa phát triển thành một phong trào quần chúng ở mức độ và quy mô tương tự như đã thấy qua phong trào Dân Quyền tại Phi Luật Tân, hay phong trào Sinh Viên-Lao Ðộng tại Nam Hàn vào thập niên 1980.

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, áp lực trong nội bộ Việt Nam, cũng như từ bên ngoài, đã có khuynh hướng gia tăng. Nhiều biến cố xẩy ra tại Việt Nam cho thấy mầm mống áp lực thay đổi đã xuất hiện. Những áp lực bộc phát này thường bắt nguồn từ chủ trương độc đoán và đàn áp của chính quyền chống lại trào lưu cởi mở chính trị. Ngoài ra, còn phải lưu ý đến những áp lực từ bên ngoài, sẽ có cơ hội gia tăng cùng một lúc với tốc độ của tiến trình hội nhập.

Việt Nam có thể tiếp tục duy trì tình trạng phát triển bền vững trong khi vẫn tiếp tục chống lại những xu hướng đòi hỏi cởi mở chính trị hay không ? Với nỗ lực đẩy mạnh hội nhập toàn cầu để nuôi dưỡng phát triển kinh tế, Việt Nam có thể tiếp tục chống lại áp lực dân chủ hóa, từ trong nước cũng như bên ngoài, hay không ? Ðó là hai vấn đề được khảo sát trong khuôn khổ bài viết này.

I. Dẫn Nhập

Việt Nam là một trong năm nước theo chế độ cộng sản còn lại, đứng thứ hạng 149 trên tổng số 208 quốc gia, với mức lợi tức bình quân đầu người (Gross National Income Per Capita) là US$ 2490/một năm, tính theo chỉ số Mãi Lực Tương Ðương (Purchasing Power Parity “PPP”). Mặc dầu vẫn còn khiêm nhường, con số này là kết quả của trên hai thập niên nỗ lực thực hiện một chính sách phát triển kinh tế phỏng theo mô hình kinh tế thị trường với định hướng xã hội được áp dụng tại Trung Quốc.

Về mặt chính trị, Việt Nam vẫn bị đặt dưới sự khống chế của một đảng duy nhất. Ðối kháng với chính quyền vẫn còn bị đàn áp và giam giữ. Vào thời kỳ bắt đầu đổi mới, khả năng chịu đựng chế độ cai trị hà khắc từ phía quần chúng được giải thích như một hình thức trao đổi giữa chính quyền và quần chúng vì “người dân Việt Nam nói chung dường như sẵn sàng chập nhận những sự hạn chế chính trị..miễn là các cải tổ kinh tế vẫn tiếp tục đem lại lợi ích cho họ.” Tuy nhiên, với một mức độ phát triển kinh tế bình quân trên 7 phần trăm một năm như hiện nay, những tiếng nói cổ võ nới lỏng chính trị lại có chiều hướng gia tăng, và tập trung vào nỗ lực tranh đấu cho quyền công dân và quyền con người; giải quyết bất công xã hội; loại bỏ khuynh hướng bao che phe phái bằng cách vận dụng võ lực và quyền thế để trấn áp. Gần đây nhất là hoạt động chống đối chính quyền từ ngay trong nội bộ của đảng. Phản ứng chống đối đó không phải vì bất mãn đối với một tình trạng kinh tế trì trệ, do đó, đã cho thấy xu thế chống đối chính quyền có những nguyên do khác, và không bị kích động bởi một tình trạng suy xụp kinh tế. Sự kiện đó cũng đã đánh đổ luận cứ về giá trị Á châu theo đó, nhu cầu dân chủ không phù hợp với đặc trưng văn hóa và lịch sử Á đông, vốn là luận cứ ÐCSVN thường vẫn viện dẫn để biện minh cho chủ trương phát triển kinh tế không cần dân chủ hóa.

Hiện nay, cuộc tranh luận về hiện đại hóa và dân chủ hóa đã vượt ra ngoài phạm vi và giới hạn của trung tâm quyền lực đảng, lan tràn ra công luận và mở đường cho sinh hoạt tranh luận chính trị trong quần chúng. Những tiếng nói đòi hỏi dân chủ, trong khi kinh tế vẫn tiếp tực trăng trưởng, phủ định quan niệm cho rằng người dân sẵn sàng chấp nhận tình trạng kềm kẹp chính trị như là một đối giá của phát triển.

Ðòi hỏi cởi mở chính trị ngày càng chứng minh giá trị nhân quyền-dân quyền và nguyện vọng tự do dân chủ mang tính chất phổ quát, vượt ra ngoài giới hạn văn hóa cá biệt. Công trình khảo sát tiến trình dân chủ hóa tại một số nước trong vùng Á châu - Thái bình dương, đặc biệt là tại Ðài Loan và Nam Hàn trong thập niên 1980, đã đưa đến một kết luận sơ khởi theo đó, phát triển kinh tế sẽ tạo lực thúc đẩy dân chủ hóa. Những công trình nghiên cứu này còn cho thấy một chính thể độc đoán thường là giai đoạn chuyển tiếp đến dân chủ.

Trên diễn đàn chính trị thế giới, cuộc tranh luận chỉ còn xoay quanh vấn đề tốc độ và phương thức thực hiện dân chủ dựa trên đặc thù văn hóa của từng dân tộc. Ngay trong lãnh vực định nghĩa, dân chủ được xác định là một mục tiêu phát triển tối hậu mà mọi nước trên thế giới cần phải hướng tới để đem lại an bình và phúc lợi cho dân tộc. Vào thế kỷ 21, mức độ phát triển của một nước không còn được đo lường bằng những chỉ số tăng trưởng thuần túy kinh tế. Những tiêu chuẩn về trình độ phát triển con người được đề ra để đánh giá mức độ phát triển toàn diện cho mỗi quốc gia. Giá trị dân chủ và nhân quyền đã được các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, trong đó có Việt Nam, thừa nhận là những giá trị phổ quát mà mỗi chính thể cần phải hướng tới để đem phúc lợi cho dân tộc, trong khuôn khổ của “Những Mục Tiêu Thiên Niên Kỷ.” Nhu cầu hội nhập với thế giới, cộng với áp lực từ bên ngoài hướng về một trật tự dân chủ toàn cầu, trở thành động lực thúc đẩy chính quyền Việt Nam phải gia tăng nỗ lực tôn trọng những cam kết phát huy và xây dựng giá trị dân chủ nhân quyền tại Việt Nam.

Những diễn biến của tình hình từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới vào cuối thập niên 1980 cũng cho thấy một số dấu hiệu chuyển đổi trong cách ứng xử của giới cầm quyền tại Việt Nam, đặc biệt là trong lề lối phản ứng trước những đòi hỏi và áp lực cải tổ xuất phát từ nhiều phía, trong một môi trường xã hội-chính trị ngày càng đa nguyên và đa dạng. Tuy nhiên, mặc dầu tầm kiểm soát quần chúng của chế độ đã suy giảm rất nhiều do ảnh hưởng của những lực kinh tế thị trường, chưa có dấu hiệu cụ thể nào cho thấy giới cầm quyền sẵn sàng nhượng độc quyền cai trị.

II.Tương quan giữa phát triển và dân chủ hóa trên lý thuyết

Ðối với những nước đang phát triển trong vùng Á châu - Thái bình dương, thập niên 1990 được đánh dấu bởi một cuộc tranh luận sôi nổi về giá trị dân chủ Tây phương và những luận cứ phủ định từ phía những nền văn hóa chính trị Á đông, vốn đặt để nhu cầu duy trì trật tự xã hội và ổn định chính trị lên trên đòi hỏi tự do cá nhân. Hiện nay, thực tế chính trị tại Việt Nam, được phản ảnh qua nỗ lực tranh đấu cho nhân quyền và quyền tự do của người dân, ngày càng minh chứng cho tính chất phổ quát của các giá trị dân chủ.

a.Quan điểm Giá trị Á châu và Giá trị Dân chủ Tây phương

Quan điểm Giá trị Á châu, dùng để phản bác xu hướng phát huy Giá trị Dân chủ, bắt nguồn từ cuộc vận động chuẩn bị cho Hội Nghị Quốc Tế Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Vienna vào năm 1993. Một số quốc gia trong vùng Ðông Nam và Nam Á châu đã ký kết Tuyên Ngôn Bangkok vào tháng Tư 1993 xác định “một quan điểm về nhân quyền cá biệt cho Á Châu,” và quả quyết rằng “do những điều kiện lịch sử đặc biệt cũng như căn cứ vào những giá trị cá biệt của Á đông, các quốc gia Á châu có căn cứ để thừa nhận một quan điểm về nhân quyền và dân chủ khác biệt trên căn bản với quan điểm của Tây phương. Thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore chủ trương, trong chiều hướng hiện đại hóa đất nước, các quốc gia Á châu phải nỗ lực bảo vệ những giá trị cốt lõi Á đông. Nói cách khác, “Hiện Ðại Hóa thì có, nhưng Tây Phương Hóa thì không.” Kể từ đó, ông đã trở thành nhân vật tiêu biểu cho thuyết Giá trị Á châu, và chủ trương một thể chế gia chủ theo quan niệm “dân chi phụ mẫu” thích hợp với nền văn minh Á đông hơn là một thể chế dân chủ theo Tây phương, và một chế độ toàn trị sẽ hữu hiệu hơn trong nỗ lực phát triển kinh tế tại các nước trong vùng Á châu.

Lập luận của Lý Quang Diệu đã bị Amartya Sen phản bác vì “không thể coi thành quả phát triển kinh tế của Singapore hay Trung Quốc như là 'bằng chứng xác quyết' theo đó, các chính thể toàn trị hữu hiệu hơn trong nỗ lực kích thích phát triển kinh tế.” Tại cùng diễn đàn, MinXin Pei quả quyết rằng “phát triển bền vững chắc chắn sẽ không thể thực hiện được, nếu không có một nền hành chánh công quyền tốt” - được hiểu như một guồng máy quản lý sinh hoạt giữa chính quyền và tư nhân dựa trên sự hiện hữu của những định chế phát triển, như cơ chế pháp trị; hệ thống kiểm soát tài chính công; sinh hoạt chính trị trong sáng; và một hệ thống đôn đốc và kiểm soát khả dĩ bảo đảm được sự phân định nghĩa vụ và trách nhiệm giữa các chức năng chính quyền. Những yếu tố trên đều nằm trong phạm vi biện pháp tái cấu trúc định chế đưa đến cải tổ chính trị, và sự phát triển của sinh hoạt dân chủ. Pei kết luận rằng “những chuyển biến mới nhất tại các nước trong vùng Á châu-Thái bình dương có thể biện minh chính xác hơn cho một luận cứ theo đó, thể chế toàn trị là một giai đoạn chuyển tiếp trước khi bước sang giai đoạn dân chủ hóa.”

b.Phát triển và dân chủ hóa: liên hệ mật thiết hay tương quan nhân quả?

Công trình nghiên cứu tiến trình dân chủ hóa tại Ðài Loan và Nam Hàn chứng minh mặc dầu “phát triển kinh tế, tự nó, không phải là bảo đảm cho một nền dân chủ ổn cố.. có rất nhiều bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa dân chủ và phát triển kinh tế, khi một trong hai, hoặc cả hai, lãnh vực này đạt được một trình độ tăng trưởng nào đó” (Robinson 1991). Khi khảo sát tiến trình dân chủ hóa tại Ðài Loan, Nam Hàn, và Phi Luật Tân trong thập niên 1980, Robinson kết luận nền “văn hóa chính trị” và truyền thống lịch sử là hai yếu tố chủ yếu “quyết định khi nào xu thế dân chủ sẽ xuất hiện, và khi nào nó sẽ thành công” đồng thời, môi trường quốc tế “tác động mạnh vào thời điểm chuyển tiếp đến dân chủ.”

Công trình nghiên cứu thực nghiệm của Stockton, Heo và Ro cũng nhận diện một “ngưỡng cửa dân chủ hóa,” cho phép xác định được một “điểm mốc phát triển thúc đẩy tiến trình chuyển tiếp thể chế.” Tuy nhiên công trình nghiên cứu này cũng lưu ý chưa thể xác định mối tương quan nhân quả giữa phát triển kinh tế và dân chủ hóa vì “những giải thích thuần túy kinh tế vẫn dẫn đến những biến số khác biệt chưa thể giải thích được.” Theo Neher và Marlay, không thể xác định mối liên hệ mật thiết giữa phát triển kinh tế và dân chủ hóa như một tương quan nhân quả, mặc dầu “những quốc gia giầu có thường theo thể chế dân chủ, trong khi các nước nghèo, nhìn chung, thường sống dưới thể chế độc tài” (Neher và Marlay 1995).

Theo hai giáo sư này, sự phát triển lý tưởng dân chủ trên toàn cầu, một phần, là do kết quả của hiện tượng truyền bá thông tin nhanh chóng do tiến bộ kỹ thuật, đã được họ định nghĩa là “hiện tượng bộc phát truyền thông.” Crouch và Morley phân tích sự chuyển đổi chế độ là do “tác động hỗ tương và tích cực giữa ba tiến trình, tuy biệt lập, nhưng có mối tương quan mật thiết với nhau,” khi tăng trưởng kinh tế thúc đẩy những chuyển biến xã hội. Những chuyển biến xã hội này sẽ thúc đẩy nỗ lực vận động chính trị, để thúc đẩy sự chuyển đổi chế độ. Trường hợp Ðài Loan và Nam Hàn cho thấy, ngoài những yếu tố trên, sự phát triển của một giai cấp trung lưu lớn mạnh đ㠓khơi nguồn cho xu hướng đa nguyên chính trị, và từ đó, đặt nền móng cho một phong trào dân chủ”(Morley 1993).

III.Xu thế dân chủ hóa tại Á Châu

Trong vòng hai thập niên cuối của thế kỷ 20, kinh nghiệm dân chủ hóa tại Ðài Loan và Nam Hàn đã hỗ trợ cho luận cứ gắn liền phát triển với dân chủ hóa, đồng thời giảm mức độ xác tín của luận cứ cho rằng vẫn có thể nuôi dưỡng đà phát triển kinh tế bền vững đồng thời duy trì một thể chế toàn trị.

a.Liên hệ mật thiết giữa phát triển và dân chủ hóa: trường hợp Ðài Loan và Nam Hàn.

Tiến trình dân chủ hóa tại Ðài Loan và Nam Hàn bắt nguồn từ tình trạng phát triển kinh tế mà cả hai nước đã đạt được vào những thập niên 1970 và 1980. Từ 1952 đến 1987, tổng sản lượng (GNP), và GNP tính theo đầu người (GNP per Capita) đã tăng lên gấp sáu lần (Robinson 1991). Nam Hàn đã đạt được mức tăng trưởng kỷ lục trung bình 8,9 phần trăm hằng năm từ 1962 đến 1987. Trong thời gian đầu, cả hai thể chế độc tài quân phiệt tại hai nước này đều chống cự mọi áp lực cởi mở chính trị. Tuy nhiên vào cuối thập niên 1980, cả hai chế độ đã bước vào con đường dân chủ hóa do sự thức đẩy của các lực kinh tế.

Vào năm 1987, Tổng thống Tưởng Kinh Quốc đi bước đầu để đưa Ðài Loan vào con đường dân chủ hóa, với những biện pháp cải tổ chính trị sâu rộng, chấm dứt tình trạng thiết quân luật trên toàn lãnh thổ; hủy bỏ sắc luật cấm thiết lập đảng phái chính trị; và nới rộng sự tham gia của người dân bản xứ Ðài Loan vào các chức vụ dân cử trong quốc hội và trong các chính quyền địa phương. Vai trò của giới trung lưu và sự hiện hữu của những thành phần đối lập trong sinh hoạt chính trị Ðài Loan cũng góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy quyết định cải tổ chính trị của chính quyền quân phiệt. Vào giữa thập niên 1980, “khoảng 35 phần trăm lực lượng lao động đã đạt được mức lợi tức của thành phần trung lưu tại Ðài Loan,” và “kể từ năm 1969, những thành phần đối lập với chính quyền cũng đã đạt được một túc số vào khoảng từ 25 đến 30 phần trăm tổng số phiếu trong những kỳ bầu cử.”

Trong khi đó tại Nam Hàn, cường độ bạo động của phong trào chống chính quyền độc tài quân phiệt nổi dậy vào cuối thập niên 1980, đã ép buộc chính phủ phải nhượng bộ và chấp thuận tu chính hiến pháp để thiết lập thể thức bầu cử tổng thống trực tiếp. Chính áp lực quần chúng đã thúc đẩy sự nhượng bộ của chính quyền và đưa Nam Hàn vào con đường dân chủ hóa. Sự dấn thân tích cực của sinh viên và phong trào lao động Nam Hàn vào cuộc tranh đấu chống độc tài quân phiệt là yếu tố chính đưa Nam Hàn vào con đường dân chủ hóa, bằng cách ép buộc đảng cầm quyền nhượng bộ và tuyên bố hủy bỏ chế độ kiểm soát báo chí, ân xá cho các tù nhân chính trị và tổ chức bầu cử tổng thống theo thể thức đầu phiếu trực tiếp. Trong hai tiến trình dân chủ hóa tại Ðài Loan và Nam Hàn, phát triển kinh tế đến trước trào lưu dân chủ hóa. Ngoài ra, hiểm họa cộng sản trong thời cao điểm của chiến tranh lạnh cũng là một yếu tố thúc đẩy hai nước chọn con đường dân chủ hóa để đối phó kịp thời.

b.Phát triển không dân chủ hóa: trường hợp Việt Nam

Trong khi đó, kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới và mở của với bên ngoài vào cuối thập niên 1980 để cứu vãn nền kinh tế kiệt quệ, ÐCSVN đã phải gắng sức thiết lập một chiến lược hiện đại hóa đất nước mà không cần phải thực hiện dân chủ.

Thành quả phát triển kinh tế lúc ban đầu đã biện minh cho lập trường nói trên, và khiến cho ÐCSVN vững tin có thể tiếp tục phát triển kinh tế mà không cần nhượng bộ áp lực thúc đẩy cải tổ cơ cấu chính trị. Cho đến những năm gần đây, Việt Nam vẫn đạt được thành quả kinh tế khả quan, mặc dầu Hà Nội không cần phải thực hiện đầy đủ những biện pháp cải tổ cơ cấu do các định chế đa quốc gia khuyến cáo. Thành quả kinh tế nói trên là do nỗ lực thực hiện chính sách phát triển dựa theo mô hình “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của Trung Quốc, nhằm giúp Việt Nam điều hướng phát triển kinh tế, trong khi vẫn duy trì một mức độ kiểm soát chặt chẽ trên sinh hoạt chính trị. Ðối với cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, ý đồ đằng sau kế hoạch phát triển tập trung nói trên là bảo vệ chế độ toàn trị chống lại áp lực cải tổ chính trị. Khi quyết định đi theo hướng phát triển của Trung Quốc, Việt Nam còn muốn rút kinh nghiệm dọ dẫm của Bắc Kinh, và đã công khai thú nhận rằng Việt Nam còn đi sau Trung Quốc trong lãnh vực cải tổ chính trị và cơ cấu chính quyền.

c.Sự hình thành của chính sách phát triển Việt Nam

Kinh nghiệm phát triển của Việt Nam vào cuối thập niên 1980, trong gia đoạn giữa hai đại hội 6 và 7 của ÐCSVN, tỏ ra rất phức tạp và “ngoắt ngoéo,” với nhiều chuyển hướng giữa đường lối quyết liệt theo khuôn mẫu Liên Xô do Gorbachev chủ trương, và đường lối thận trọng hơn của Trung Quốc do Ðặng Tiểu Bình chủ xướng.

Trong khoảng thời gian từ 1976 đến 1980, tăng trưởng kinh tế hầu như hoàn toàn trì trệ ở mức dưới 0,4% một năm (Nguyễn Thanh Giang 2002). Cuộc chiến tranh với Trung Quốc đã làm cho ngân quỹ quốc gia kiệt quệ, trong khi mức viện trợ từ phía Nga Xô xụt giảm trầm trọng. Nỗ lực duy trì một lực lượng quân sự quá lớn, với một đoàn quân viễn chinh trú đóng tại Cam Bốt và một guồng máy an ninh tại quốc nội, cộng với những tổn hại tài lực do kế hoạch đánh phá tư sản và cộng sản hóa miền Nam, đã khiến cho “người dân miền Nam no đủ, lần đầu tiên trong lịch sử đã phải chịu cảnh thiếu đói” (Nguyễn Minh Cần 2001). Những chính sách tai hại đó đã làm kiệt quệ Việt Nam, và ép buộc ÐCSVN phải duyệt xét lại toàn bộ đường lối để sống còn.

Trước đại hội 6, vào khoảng tháng 12, 1986, Trường Chinh thực hiện hai chuyến công du sang Liên Xô để vận động trợ giúp, và đã được lãnh đạo Xô Viết khuyến cáo là nên thực hiện cải tổ. Nhân các cuộc họp nói trên, “Trường Chinh đã cho ban lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Liên Xô biết là trong đại hội tới, ông sẽ trao quyền cho Nguyễn Văn Linh.. Ban Lãnh đạo Liên Xô cố động viên Trường Chinh quyết tâm theo con đường cải cách. Và điều đó đã ảnh hưởng tốt tại đại hội 6 (tháng 12, 1986): Trung Ương Ðảng Cộng Sản Việt Nam đánh giá cao công cuộc “perestroika” và “glasnost” ở Liên Xô và quyết định 'đổi mới'” (NM Cần 2001). Tuy nhiên, Trường Chinh vẫn vận dụng ảnh hưởng cá nhân để chuyển hướng cải tổ theo mô hình Trung Quốc. Do cuộc vận động này, ÐCSVN đã giới hạn chính sách cải tổ vào mục tiêu đổi mới kinh tế không có cải tổ chính trị. “Trong thời gian này, tập đoàn cầm quyền Việt Nam..cố học kinh nghiệm của Trung Quốc..là 'cải cách kinh tế,' 'mở cửa' ra nước ngoài mà không cải cách về chính trị. Chính vì thế nghị quyết đại hội 6 của Ðảng Cộng Sản Việt Nam lộ rõ cái tinh thần cơ bản là chỉ 'đổi mới' về kinh tế, chứ không 'đổi mới' về chính trị” (NM Cần 2001, chữ đậm của tác giả).

Sau khi nhậm chức tổng bí thư, Nguyễn Văn Linh lại bắt đầu chuyển hướng cải tổ theo mô hình Xô Viết. Qua những chuyến công du Liên Xô để cầu viện và tham khảo với lãnh đạo Cẩm Linh, Nguyễn Văn Linh đã được Gorbachev khuyến khích nên “đổi mới tư duy.” Khi trở về nước sau chuyến đi tham khảo vào tháng 10 năm 1987, Nguyễn Văn Linh đã loan báo chính sách cởi trói văn nghệ sĩ để khuyến khích sự tham gia vào việc hoạch định chính sách cải tổ toàn diện.

“Những lời ông nói gây ấn tượng mạnh từ giới trí thức lan đến toàn dân..Ở nước ngoài, những trí thức theo Ðảng Cộng Sản, thành viên hội Việt Kiều yêu Nước..” (NM Cần 2001).

“Sự nở rộ vô tiền khoáng hậu của xu thế cấp tiến,” do tác động của quyết định cởi trói văn nghệ sĩ, đưa đến một trào lưu đòi hỏi cải tổ chính trị phát xuất từ thành phần trí thức ở trong và ngoài nước. Tuy nhiên, lãnh đạo ÐCSVN đã lo lắng khi theo dõi những biến chuyển của tình hình tại Liên Xô và Ðông Âu, với sự tan rã của các chế độ cộng sản tại đó. Tình trạng này tạo thời cơ cho những thành phần thủ cựu trong hàng ngũ ÐCSVN dành lại thế chủ động và hướng chính sách ngả trở lại theo mô hình Trung Quốc. Lãnh đạo ÐCSVN bắt đầu khảo sát những biện pháp do đảng cộng sản Trung Quốc áp dụng để đối phó với biến cố Thiên An Môn, “đồng thời họ cũng cố học kinh nghiệm của Trung Quốc.. (vào) cuối năm 1989, sự xụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa ở Ðông Âu và ở Mông Cổ đã gây chấn động mạnh đến Ðảng Cộng Sản Việt Nam” (NM Cần 2001). và từ đó khiến cho họ luôn bị ám ảnh bởi mục tiêu duy trì ổn định chính trị và trật tự xã hội Mác Xít.

Biến cố Thiên An Môn và sự tan rã của Liên Xô ảnh hưởng lớn lao đến chiều hướng của ÐCSVN trong đại hội 7, và “có thể coi hội nghị Trung Ương lần thứ 8 đánh dấu bước ngoặt: Ðảng Cộng Sản Việt Nam dứt khoát từ bỏ mọi ý muốn 'đổi mới' về mặt chính trị” (NM Cần 2001, chữ đậm của tác giả). Vào tháng 10, 1989, chính sách cởi trói văn nghệ sĩ chấm dứt, và đến tháng 12, 1991, khi Liên Xô xụp đổ, “Nguyễn văn Linh, Phạm Văn Ðồng, Ðỗ Mười lại khăn gói lên đường thầm lặng đến Trung Quốc..để mong bình thường hóa quan hệ Việt-Trung” (NM Cần 2001).

Vào thời điểm đó, thành quả phát triển kinh tế và những hứa hẹn viện trợ từ phía Trung Quốc khiến cho Hà Nội có đủ tự tin để sát cánh với Bắc Kinh. Với sự chuẩn bị cần thiết, vào đầu năm 1991, ÐCSVN đã trao phó cho Ðỗ Mười trọng trách nối lại mối gia hảo với Bắc Kinh và thực hiện chính sách kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa” theo mô hình Trung Quốc. “Sau khi chủ nghĩa xã hội bị xụp đổ ở Ðông Âu, Ðảng Cộng Sản Việt Nam coi Gorbachev và ban lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Liên Xô là phản bội chủ nghĩa Marx-Lenin” (NM Cần 2001).

Kể từ đó, Việt Nam đã đạt được thành quả khả quan trong lãnh vực phát triển kinh tế với chính sách kinh tế thị trường. Trong thập niện đầu áp dụng chính sách đổi mới nói trên, mức độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam đã lên tới mức 8% một năm. Thành quả đó là một lý do giải thích chủ trương của Hà Nội dứt khoát chống đối mọi áp lực cải tổ chính trị, trong khi thực hiện chính sách đổi mới kinh tế theo mô hình Trung Quốc.

IV.Tại sao Việt Nam tiếp tục chống đối áp lực cải tổ chính trị

Qua đến đại hội 8 năm 1996, “việc đưa Lê Khả Phiêu lên nắm quyền tổng bí thư chứng tỏ rằng phe quân phiệt bảo thủ trong quân đội và công an trong Ðảng Cộng Sản ngày càng thao túng quyền lực đất nước..” (NM Cần 2001). Kể từ đó, khuynh hướng chống đối cải tổ chính trị được giải thích như bắt nguồn từ mâu thuẫn đường lối giữa phe nhóm bảo thủ cực đoan thân Trung Quốc và một số thành phần cấp tiến thân Tây phương, mới manh nha thành hình trong hàng ngũ đảng. Trên thực tế, kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa với bên ngoài, giới lãnh đạo ÐSCVN đã chịu ảnh hưởng rất nặng của Trung Quốc, đặc biệt là trong quan điểm về nguy cơ diễn biến hòa bình.

a.Nỗi ám ảnh về diễn biến hòa bình

Cho đến nay, luận cứ thường được viện dẫn để bảo vệ chính sách thủ cựu chống cải tổ chính trị vẫn là mục đích ngăn chặn “âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch,” mặc dầu nguyên do thầm kín mang nhiều tính chất thực tiễn hơn, và được thúc đẩy bởi nhu cầu bảo vệ sự tồn tại của chế độ. Những nỗ lực vận động quần chúng đều nhắm vào mục tiêu bảo vệ ổn định chính trị và xã hội, vì chiêu bài bảo vệ chủ nghĩa không còn sức thuyết phục quần chúng. Mỗi khi chế độ bị đe dọa bởi chuyển biến xã hội-chính trị, người ta lại thấy truyền thông nhà nước tung ra những khẩu hiệu chống “âm mưu diễn biến hòa bình” của “các thế lực thù địch.”

Về thực chất, chủ trương chống “âm mưu diễn biến hòa bình” bắt nguồn từ nỗi ám ảnh của Mao Trạch Ðông đối với đường lối đối ngoại của Hoa Kỳ trong khuôn khổ của chính sách ngăn chặn, đã được Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles phác họa trong những bài diễn văn và điều trần của ông trước Ủy ban Ðối ngoại Quốc Hội Hoa Kỳ vào thập niên 1950. Theo Mao, Dulles chủ trương, ngoài chính sách ngăn chặn đà bành trướng của quốc tế cộng sản, thế giới tự do cần phải hỗ trợ cho nỗ lực chuyển đổi các thể chế cộng sản trên thế giới bằng phương tiện và đường lối hòa bình. Dulles tiên liệu sự biến thể của chế độ cộng sản qua các thế hệ lãnh đạo, một khi mức độ phát triển xã hội trong lãnh vực dân trí, an sinh-xã hội, đạt được mức độ đủ để biến tập thể quần chúng thành “lực thúc đẩy cởi mở.” Dulles khẳng định rằng cộng sản là một hiện tượng sẽ bị đào thải, và xác định trách nhiệm của Hoa Kỳ và các nước đồng minh là phải nỗ lực khuyến khích tiến trình đào thải đó và đem tự do cho các dân tộc hiện sống dưới chế độ cộng sản bằng phương tiện hòa bình.

Nỗi ám ảnh của Mao Trạch Ðông về một “âm mưu diễn biến hòa bình” từ phía Hoa Kỳ càng thêm sâu đậm khi Khrushchev khởi xướng chủ trương “chung sống hòa bình” với thế giới tư bản vào cuối thập niên 1950. Vào thời kỳ đó, chính sách chung sống hòa bình với thế giới tư bản do Liên Xô chủ trương, cùng lúc với một loạt diễn biến bất lợi cho Trung Quốc - như cuộc chính biến lật đổ chế độ thân cộng tại Lào; cuộc nổi dậy tại Tây Tạng; tranh chấp biên giới Ấn-Hoa; cuộc tàn sát thành phần thân Trung Quốc tại Indonesia; và chuyến công du Hoa Kỳ của Khrushchev sau khi từ chối không cung cấp kỹ thuật chế tạo bom nguyên tử cho Bắc Kinh - đã khiến cho Mao tin tưởng Liên Xô đã trở thành đồng minh của Hoa Kỳ trong một âm mưu chống phá Trung Quốc bằng đường lối diễn biến hòa binh (Spence 1999). Ðể bảo vệ sự sống còn của chế độ, Mao cho phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa và lên án chủ trương xét lại của Liên Xô, và vận động loại đối thủ Lưu Thiếu Kỳ, lúc đó đã bị tố cáo là “Tên Khrushchev của Trung Quốc.”

Mặc dầu chiến tranh lạnh coi như đã chấm dứt với sự xụp đổ của Liên Bang Xô Viết và sự tan rã của khối cộng sản Ðông Âu, phía lãnh đạo Trung Quốc tin là vẫn có một âm mưu diễn biến hòa bình từ phía Hoa Kỳ. Sau biến cố Thiên An Môn, rất nhiều tài liệu sách báo Trung Quốc cực lực lên án Hoa Kỳ đã đứng sau lưng phong trào sinh viên đòi dân chủ. Phản ứng đàn áp tàn bạo phong trào sinh viên tại Thiên An Môn do Ðặng Tiểu Bình điều động được coi như một đòn chống lại âm mưu diễn biến hòa bình. Sau biến cố này, Ðặng Tiểu Bình đã khẳng định rằng “các nước Tây phương đã phát động thế chiến thứ ba không có khói súng..Họ muốn thực hiện diễn biến hòa bình tại các nước xã hội chủ nghĩa để chuyển hướng các nước này theo tư bản chủ nghiã.”

Chủ trương quyết liệt chống đối cởi mở chính trị phản ảnh mối lo sợ chính của Ðặng Tiểu Bình đối với tác dụng của diễn biến hòa bình. Mối lo sợ đó vẫn được thúc đẩy bởi cùng một căn nguyên như nỗi ám ảnh của Mao Trạch Ðông trước đó, cũng như của những lãnh đạo Trung Quốc sau này. Ðó là nỗi lo âu những điều tiên liệu của ngoại trưởng Dulles sẽ thành hiện thực, một khi sự phồn thịnh kinh tế và trình độ phát triển dân trí sẽ thúc đẩy lực lượng quần chúng loại trừ vị thế độc tôn và độc quyền cai trị của đảng cộng sản, và làm chuyển đổi chế độ. Mối lo sợ đó giải thích chủ trương dứt khoát không chấp nhận cải tổ chính trị.

Cho đến nay, quan điểm của Trung Quốc về một âm mưu diễn biến hòa bình đã được lãnh đạo ÐCSVN triệt để khai thác để biện minh cho việc đàn áp đối lập và nỗ lực củng cố một thể chế độc tài độc đảng. Nhu cầu bảo vệ ổn định chính trị và trật tự xã hội để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển luôn được viện dẫn để biện minh cho những biện pháp áp chế. Nhìn chung tại Việt Nam, chủ trương chống diễn biến hòa bình gắn liền với phe thân Trung Quốc. Trong những năm gần đây, luận cứ này vẫn thường được cả Trung Quốc và Việt Nam vận dụng để chống lại những trào lưu đòi dân chủ nổi lên ở trong nước.

Trước khủng hoảng nội bộ do tác động của những chuyển biến trong thế giới cộng sản vào đầu thập niên 1990, bộ chính trị ÐCSVN - với chiều hướng thân Trung Quốc chiếm đa số vào thời đó - đã cho tẩy xóa những lời lẽ thù địch đối với Trung Quốc được ghi trong lời nói đầu của hiến pháp từ thời kỳ chiến tranh Việt-Hoa, và vội vã cầu thân với Trung Quốc để hy vọng thành lập giới tuyến cuối cùng bảo vệ xã hội chủ nghĩa và đối phó với nỗi ám ảnh chung về một “âm mưu diễn biến hòa binh.”

b.Những lực chống thay đổi từ bên trong

Khả năng duy trì ổn định chính trị của ÐCSVN tùy thuộc rất nhiều vào lực lượng an ninh và quận đội, được coi như hai cột trụ của chế độ. Khả năng chống biến loạn dựa vào một guồng máy an ninh và tình báo xâm nhập vào hạ tầng dân chúng, và một mạng lưới tình báo nhân dân ăn sâu vào xã-ấp và phường. Lực lượng an ninh và tình báo này có khả năng bóp tan từ trứng nước mọi mầm mống chống đối.

Bộ Công An đã được xây dựng thành một công cụ đắc lực của ÐCSVN và được coi như một trung tâm “mà đa số những vấn đề thuộc lãnh vực an ninh nội bộ, cũng như những chũ trương về tình hình chính trị quốc nội được bàn thảo và quyết định.” Theo Raszelenberg, nội dung những cuộc phỏng vấn thực hiện với giới chức cao cấp trong Bộ Công An đã cho thấy những cán bộ trong ngành này đều được huấn luyện với một sứ mạng duy nhất là để dẹp bạo loạn và duy trì một trạng thái ổn định xã hội, tạo điều kiện thuận tiện cho một mục tiêu được học tập là “phát triển hài hòa.”

Quân đội cũng được nuôi dưỡng để trở thành một lực lượng trung thành với đảng. Ðể khuyến khích lòng trung thành đó, cả hai lực lượng cột trụ này được hưởng những đặc quyền-đặc lợi kinh tế qua một hệ thống công ty quốc doanh được dành độc quyền trong một số lãnh vực kinh doanh quan trọng. Hệ thống kinh tài này đã biến thành phần công an và quân đội thành giai cấp “Tư sản đỏ,” làm căn bản quyền lực cho chế độ, và làm gia tăng tầm ảnh hưởng và thế lực của các thành phần chống thay đổi. Ngoài ra, còn phải kể đến vai trò của một mạng lưới an ninh tình báo chính trị đã xâm nhập vào hàng ngũ quân đội để theo dõi và trấn áp hàng ngũ quân nhân, và ngay cả guồng máy chính quyền. Vào ngày 19 tháng Chín, 2001, chỉ vài ngày sau khi Nông Ðức Mạnh được bầu làm tổng bí thư, lực lượng bảo thủ trong trung tâm quyền lực của ÐCSVN đã cho bắt một số lớn nhân vật đối kháng và các nhóm tôn giáo đối lập với chính quyền. Nguyễn Thanh Giang lên án cuộc tảo thanh này và cho rằng “đây là việc làm của những lực lượng bảo thủ trong nội bộ Ðảng muốn dằn mặt tân Tổng bí thư Nông Ðức Mạnh, và những khuôn mặt trẻ trung trung sáng suốt và tiến bộ trong Bộ chính trị là chớ có tìm cách thoát ra khỏi ảnh hưởng của họ. Thứ hai: Việc làm này nhằm phá hoại Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, phá hoại quan hệ Việt-Mỹ và làm xấu mặt Việt Nam trên trường quốc tế để thế giới tẩy chay Việt Nam hòng làm Việt Nam chui vào ống tay áo của Trung Quốc.”

Nhóm bảo thủ đã thành công trong việc xâm nhập và bám trụ vào các công ty quốc doanh. Sự kiện này giải thích tại sao phe cởi mở trong ÐCSVN gặp khó khăn trong việc tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước để thực hiện biện pháp tái cấu trúc cần thiết hầu đáp ứng những đòi hỏi cải tổ kinh tế để hội nhập với thế giới bên ngoài. Hiện nay vẫn còn khoảng 50 phần trăm doanh nghiệp nhà nước chưa giải tư vì không muốn mất đặc quyền.

Tuy vậy, kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới vào cuối thập niên 1980 cho đến nay, cũng có những dấu hiệu cho thấy môi trường chính trị của Việt Nam đã chuyển biến theo hướng cởi mở hơn trước.

V.Những dấu hiệu chuyển biến chính trị sau đổi mới

Mặc dầu lực chống thay đổi vẫn còn khả năng kiểm soát chặt chẽ sinh hoạt chính trị tại Việt Nam, đã có biến chuyển trong môi trường xã hội-chính trị trong nước cho thấy một chiều hướng cải tiến thuận lợi cho việc phát triển dân chủ. Theo nhận định của Brown, “Việt Nam đã ở trong tình trạng 'chuyển tiếp thể chế' từ nhiều năm nay.” Tuy nhiên, thay đổi này thường vẫn chỉ phản ảnh bước nhượng bộ của ÐCSVN khi phải đương đầu với áp lực đe dọa xô đẩy tình hình vào một cuộc khủng hoảng chính trị.

Cho đến nay, những biện pháp cải tổ này không xuất phát từ một quyết tâm thực hiện dân chủ cho Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn chung, môi trường chính trị Việt Nam đã hội đủ “năm nguyên nhân chuyển biến chế độ,” tương tự như đã từng được nhận diện trong quá trình chuyển tiếp chế độ tại Ðài Loan và Nam Hàn. Ngoài ra, một số sinh hoạt trong môi trường chính trị Việt Nam đã bắt đầu phát triển theo một chiều hướng thuận lợi cho sự nẩy nở của sinh hoạt dân chủ. Những sinh hoạt này được nhận diện như “bẩy thành tố tích cực” có khả năng thay đổi địa hình chính trị của Việt Nam theo một hướng thuận lợi cho xu thế dân chủ hóa.

a.Năm nguyên nhân chuyển biến chế độ

Pei đã nhận diện năm nguyên nhân chính đưa đến sự chuyển đổi thể chế: tình trạng mục rữa của chế độ toàn trị; những chuyển biến nội bộ; sự phát triển xã hội công dân; những thay đổi xã hội-kinh tế rộng lớn; và cuối cùng là áp lực bên ngoài. Kể từ khi mở cửa giao dịch với bên ngoài, mầm mống dân chủ đã được cấy vào môi trường chính trị Việt Nam, và hiện nay, cả năm nguyên nhân chuyển đổi chế độ cũng đã được phát hiện.

Mặc dầu sự mục rữa chưa đến độ có thể làm xụp đổ chế độ hiện hữu, tệ nạn tham những-cửa quyền và bè phái cũng đã được lãnh đạo ÐCSVN công khai xác nhận là một quốc nạn, hiện đã làm mất uy tín của đảng trong dư luận quần chúng. Việt Nam đã bị liệt vào thứ hạng quốc gia tham nhũng nhất trên thế giới với một chỉ số tham nhũng 9.75, theo đó, 10 điểm là mức độ tham nhũng trầm trọng nhất. Các giới chức chính quyền Việt Nam cũng phải thú nhận rằng kết quả một cuộc điều tra đã phát hiện hành vi tham nhũng trầm trọng tại 1/3 tổng số cơ quan của ÐCSVN. Vụ án Năm Cam là một “cơn ác mộng cho ÐCSVN.. và đã khiến cho hai nhân vật có thế lực trong Trung Ương Ðảng bị thanh trừng.”

Về phần chủ thuyết, lý tưởng cộng sản không còn sức thu hút đối với quần chúng. Người dân Việt Nam hiện nay, đặc biệt là thành phần sinh viên, không còn muốn gia nhập đảng cộng sản. “Tại trường đại học kinh tế Hà Nội, chỉ có 52 trên tổng số 1200 sinh viên gia nhập đảng.” Với trên 50% dân số Việt Nam sinh trưởng sau 1975, phần đông chỉ chú tâm đến đầu tư thương mại và kinh doanh, và ÐCSVN không còn sức thu hút đối với họ.

Nhiều nhà xã hội học cho rằng Việt Nam đang trải qua một cuộc khủng hoảng ý thức hệ,” và điều đó là nguyên nhân sâu xa giải thích hiện tượng bạo hành gia tăng trong xã hội Việt Nam ngày nay. Mặt khác, sự kiện thông tin về hiệp ước biên giới và lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc được tiết lộ ra bên ngoài có thể hiểu như phản ứng bất mãn của một số giới chức cao cấp trong ÐCSVN về sự nhượng bộ quá đáng của Hà Nội, và muốn phản đối mối quan hệ quá lệ thuộc vào Bắc Kinh.

Xã hội công dân đã xuất hiện tại Việt Nam vào thập niên 1980, kể từ khi những tổ chức ngoài chính phủ (NGOs) của cộng đồng quốc tế vào hoạt động trong lãnh vực cứu trợ và xã hội. Khi khảo sát sự phát triển của sinh hoạt xã hội công dân kể từ thời kỳ đổi mới, Ngọc Dư kết luận sự đóng góp quý báu của các NGOs cho Việt Nam, đặc biệt là trong lãnh vực xóa đói giảm nghèo, cũng như trong các lãnh vực cứu trợ khác mà nhà nước không còn khả năng đảm trách, hiện nay đã được ÐCSVN chính thức công nhận. Kể từ thập niên 1990, nhiều luật lệ đã được ban hành để tạo khung luật pháp cho việc phát triển xã hội công dân tại Việt Nam.

Từ ngày chế độ bao cấp được bãi bỏ, khu vực tư nhân phải gánh vác một phần đáng kể trách nhiệm tài chính yểm trợ các chương trình giáo dục và xã hội. Trên thực tế, sự bàn giao trách nhiệm tài chính từ khu vục nhà nước sang khu vực tư nhân, còn được gọi là tiến trình “xã hội hóa” dịch vụ xã hội và giáo dục, là khởi điểm cho sự xuất hiện của xã hội công dân tại Việt Nam. Hiện nay, những tổ chức tư nhân, gồm đoàn thể và hiệp hội nghề nghiệp; tổ chức cộng đồng; tôn giáo; NGOs, kể cả của quốc tế lẫn của địa phương, đóng vai trò nhân tố điều hành làm trung gian giữa chính quyền và quần chúng. Những thực thể này trở thành “công cụ dân chủ,” giúp tạo tiếng nói và sức mạnh cho quần chúng. Vai trò của các NGOs đặc biệt quan trọng trong việc phân phối và san bằng thành quả của phát triển.

Ngoài sinh hoạt của những tổ chức kể trên, đà phát triển của khu vực đầu tư kinh doanh thương mại cũng đóng góp một phần không nhỏ vào sự bành trướng của xã hội công dân. Giới doanh nhân trẻ tại Việt Nam đã bắt đầu tổ chức thành đoàn thể vận động chính quyền. Nhiều nhóm doanh nhân người Việt trong nước đã liên kết với các nhóm tư bản nước ngoài để vận động chính quyền soạn thảo và tu chính những luật lệ cởi mở và thích hợp hơn cho hoạt động kinh doanh. Hà Nội đã tỏ ra rất quan tâm đến những nỗ lực vận động này.

Áp lực thay đổi cũng còn phát xuất từ quan hệ đối với bên ngoài. Trong sinh hoạt giao dịch thương mại với thế giới, Việt Nam cũng đã tiếp cận với những sức ép ngoại giao, đặc biệt là từ phía các quốc gia Á châu láng giềng, lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của kiều dân đầu tư tại Việt Nam. Do mối quan hệ ngoại giao lâu năm, cũng như tầm quan trọng của các khoản đầu tư vào Việt Nam, tiếng nói của Nhật Bản, Ðài Loan và Nam Hàn có một trọng lượng đáng kể đối với giới cầm quyền Việt Nam, đặc biệt khi Nhật Bản đã gắn kết mức độ viện trợ phát triển với thành tích tôn trọng nhân quyền của Việt Nam.

Ngoài ra, áp lực thay đổi từ bên ngoài còn phát xuất từ phía ít thân thiện hơn, khi Việt Nam bắt đầu thiết lập quan hệ mậu dịch với Hoa Kỳ, qua việc ký kết và thực hiện hiệp ước thương mại Việt-Mỹ. Trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu, hoạt động ngoại thương cung cấp một lợi khí chiến lược rất quan trọng mà Hoa Kỳ có thể vận dụng để hỗ trợ cho chính sách đối ngoại. Cho đến nay, thành tích tiêu cực của Việt Nam trong lãnh vực tôn trọng nhân quyền vẫn tiếp tục làm vẩn đục quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngoài ra, những cuộc vận động từ phía cộng đồng người Mỹ gốc Việt để Quốc hội Hoa Kỳ thông qua dự luật Nhân Quyền cho Việt Nam, cộng với sự yểm trợ nỗ lực tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam từ phía cộng đồng này, cũng gây trở ngại đáng kể cho nỗ lực đẩy mạnh quan hệ bình thường giữa hai nước.

Sự hiện diện của một cộng đồng người Việt hải ngoại ngày càng phát triển vẫn là mối quan tâm của Hà Nội, do tiềm năng lớn mạnh của cộng đồng này về hai phương diện tài chính và chất xám, cũng như ảnh hưởng mà khối người này có thể vận dụng tại các nước định cư. Theo tài liệu của chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (United Nations Development Program, UNDP), hiện nay có khoảng trên 2,5 triệu người Việt sinh sống tại 100 quốc gia trên thế giới, chủ yếu là tại Hoa Kỳ, Pháp, Gia Nã Ðại và Úc Châu. Ngoài ra, còn phải kể đến những khối người Việt hiện sinh sống và định cư tại những quốc gia thuộc khối Ðông Âu và Liên Xô trước đây. Mặc dầu vẫn còn khác biệt về chính kiến và quan điểm đối với những vấn đề của Việt Nam, hiện nay khối người Việt tại những nơi này đã bắt đầu chú tâm đến việc yểm trợ nỗ lực dân chủ hóa Việt Nam. Tiềm năng kinh tế của những khối người Việt này đã được chính quyền trong nước đặc biệt lưu tâm, qua một số biện pháp ưu đãi để vận động sự tham gia và đóng góp phương tiện và khả năng của họ vào nỗ lực phát triển kinh tế Việt Nam. Ðó là những mối lợi trực tiếp về đầu vào.

Mặt khác, kể từ khi quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được nới rộng, cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã trở thành một khối yểm trợ tích cực và mạnh mẽ cho những thành phần đối kháng trong nước, qua những nỗ lực vận động hành lang tại các trung tâm quyền lực Hoa Kỳ. Trong quan hệ đối ngoại, một khi lượng xuất cảng hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ gia tăng đến mực độ có thể có ảnh hưởng quyết định đến sự thăng trầm của nền kinh tế Việt Nam, giới cầm quyền Việt Nam sẽ phải thận trọng hơn trong quan hệ với Hoa Kỳ. Ðó cũng là lúc khối người Mỹ gốc Việt có thể gia tăng những nỗ lực vận động giới cầm quyền Hoa Kỳ để có thể ảnh hưởng mạnh hơn vào đường lối chính trị của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, nhất là trong những đòi hỏi dân chủ hóa và tôn trọng nhân quyền.

b.Những dấu hiệu chuyển đổi trong môi trường chính trị Việt Nam

Chiều hướng chuyển đổi chế độ tại Việt Nam sẽ theo một tiến trình biến hóa, thay vì sẽ là một tiến trình cách mạng và “những thay đổi về định chế chính trị sẽ có triển vọng khởi nguồn từ trong hàng ngũ ÐCSVN, và sẽ được phát động bởi tầng lớp cán bộ trẻ.” Trong số bẩy dấu hiệu tích cực do Brown viện dẫn để chứng minh môi trường chính trị Việt Nam đã bắt đầu chuyển đổi, vai trò nới rộng của quốc hội và vai trò ngày càng quan trọng của truyền thông là hai điểm đáng đặc biệt lưu ý theo dõi vào thời gian tới. Ngoài ra, đối với những yếu tố khác như: nỗ lực tách biệt guồng máy đảng ra khỏi hoạt động chính quyền; xây dựng chế độ pháp trị; kế hoạch tản quyền về địa phương; loại bỏ những môn học về chủ thuyết Marx-Lenin ra khỏi chương trình đại học; và cuối cùng là cam kết thực hiện kinh tế thị trường, thì hiện nay, vẫn chưa đạt được một tầm mức đáng kể, và một tốc độ đủ nhanh, để có thể tác động mạnh vào tiến trình chuyển đổi.

Nỗ lực chuyển đổi quốc hội thành một định chế lập pháp độc lập với ÐCSVN vẫn còn là một cộng trình dở dang. Cho đến nay, chưa có một biến động nào ngoạn mục về cơ cấu nhân sự trong quốc hội, vì đa số đại biểu vẫn thuộc hệ thống đảng, và mới chỉ có một thiểu số đại biểu mang nhãn hiệu độc lập, trong khi mọi ứng cử viên vẫn phải qua tiến trình gạn lọc của Mặt Trận Tổ Quốc. Trình độ học vấn của các ứng cử viên đã được nâng cao vì đa số có bằng đại học. Mặc dầu những biểu quyết không còn đưa đến túc số tuyệt đối cho đảng, các cuộc điều trần của thành phần nội các vẫn chỉ được thực hiện trong phạm vi những lãnh vực và vấn đề đã được ÐCSVN thông qua, vì vẫn còn một số lãnh vực chính trị bị coi như bất khả xâm phạm. Quốc hội vẫn chưa làm chủ được tiến trình lập pháp vì dự án luật vẫn do các cơ quan chủ quản và hệ thống đảng chủ động đề xuất.

Sự phân quyền giũa đảng và nhà nước hầu như chưa tiến được bước nào vì toàn bộ thành phần nội các vẫn do đảng chỉ định và kiểm soát. Cơ cấu dân chủ hạ tầng vẫn do hệ thống nhân sự đảng nắm giữ và các cuộc bầu cử địa phương vẫn chỉ ghi nhận thành quả khiêm nhường về phương diện tản quyền thực sự. Quan hệ hợp tác tốt giữa chính quyền địa phương và quần chúng chỉ được ghi nhận là khả quan tại những địa phương có sự hiện diện của các tổ chức NGOs của nước ngoài hoạt động và theo dõi.

Về phần các chương trình đại học, môn chủ nghĩa cộng sản chưa được bãi bỏ và Hà Nội vẫn duy trì sự kiểm soát gắt gao đối với những chương trình do các đại học ngoại quốc thực hiện vì còn lo ngại sự truyền bá tư tưởng dân chủ tây phương.

Trong nỗ lực thực hiện kinh tế thị trường, mặc dầu đã được đảng cam kết triệt để thực hiện, vấn đề gai góc nhất vẫn là việc giải tư các doanh nghiệp nhà nước và loại bỏ đặc quyền của khu vực quốc doanh. Những cố gắng của đảng trong lãnh vực này đã bị đánh giá là thiếu nhiệt tâm và việc ban hành và thực thi luật lệ cần thiết để đẩy mạnh nỗ lực giải tư vẫn bị coi là “còn yếu kém.” Khu vực tư doanh đã thâu hoạch được kết quả khả quan hơn. Theo thống kê nhà nước, hiện nay đã có trên 80.000 doanh nghiệp tư nhân và khoảng trên hai triệu cơ sở kinh doanh tư nhân cỡ nhỏ, so với khoảng trên 5.000 doanh nghiệp nhà nước. Theo thông tấn nhà nước, kể từ khi luật đầu tư được ban hành vào năm 2000, khu vực doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp trên 4 tỷ USD vào nền kinh tế Việt Nam.

“Sự xuất hiện của một nghành truyền thông trưởng thành và hữu hiệu” trong môi trường chính trị Việt Nam được coi như một yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy chuyển đổi chế độ. Tuy nhiên, không thể trông đợi vào sự tự nguyện nới lỏng những biện pháp kiểm soát gắt gao đối với truyền thông báo chí, vì giới cầm quyền hiện hữu ý thức rất rõ tầm lợi hại của truyền thông trong mặt trận chính trị. Trong lãnh vực này, ÐCSVN đã đạt được mức độ tinh xảo do những kinh nghiệm vận dụng truyền thông báo chí để tấn công chính trị đánh phá miền Nam trước 1975, qua việc cài điệp viên xâm nhập hàng ngũ sinh viên và văn nghệ sĩ miền Nam kích động các phong trào đòi hòa bình và tự do dân chủ trong những thập niên cuối 1960 và 1970. Chính vì lý do đó mà giới truyền thông Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục bị chi phối chặt chẽ bởi những luật lệ khắt khe, gây trở ngại không nhỏ cho sinh hoạt làm tin của giới phóng viên. Ngay cả trong nhưng lãnh vực tường trình sinh hoạt không bị nhà nước cấm đoán, việc săn và viết tin cũng đưa đến trở ngại lớn cho phóng viên.

Cho đến nay, vẫn có cơ quan truyền thông chính trị “đã bị đóng cửa và nhiều tổng biên tập đã bị bắt giam” vì cho đăng tải tin tức và bình luận chính trị bất lợi cho nhà nước. Tuy nhiên, hành vi trấn áp truyền thông đã khiến cho sự xuất hiện của những loại “báo chui,” và hiện tượng tiết lộ tin tức ra nước ngoài để đánh dội trở về Việt Nam. Với thể thức đó, những người tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam đã động viên được giới truyền thông Việt ngữ hải ngoại, và những chương trình tiếng Việt trên các đài phát thanh quốc tế, để yểm trợ cho nỗ lực tranh đấu của họ.

Ngoài ra, sự trao đổi thông tin trên mạng lưới Internet đã giúp thiết lập một hệ thống tương trợ giữa những người tranh đấu cho dân chủ trong nước và dư luận bên ngoài. Sự kiện này đã khiến cho nhà nước Việt Nam phải thận trọng và nhẹ tay hơn trong các biện pháp đàn áp và trừng trị thành phần đối kháng trong nước. Những lời kêu gọi trả tự do cho thành phần tranh đấu cho nhân quyền tại Việt Nam từ phía các tổ chức tranh đấu nhân quyền quốc tế - như tổ chức Ký Giả không Biên Giới (Reporters Sans Frontières, RSF của Pháp) - đóng vai trò quan trọng trong việc ép buộc chính quyền Việt Nam hành động thận trọng hơn mỗi khi muốn bắt bớ và giam cầm những nhân vật đối kháng. Ít ra là trên phương diện vận động truyền thông, hoạt động của những tổ chức này đã cung cấp cho thành phần đối kháng trong nước một lá chắn tương đối chống lại hành vi sách nhiễu của chính quyền và ngăn chặn hành động quá trớn của giới cầm quyền đối với thành phần chỉ trích đảng và nhà nước. Gần đây, phần vụ văn hóa tư tưởng của ÐCSVN đã phải nghiên cứu những biện pháp kiểm soát việc xử dụng mạng lưới Internet để phổ biến tài liệu thông tin từ nước ngoài vào Việt Nam.

Tuy vẫn còn nhiều trường hợp bắt bớ và đàn áp, do chủ trương chống đối cởi mở chính trị từ phía ÐCSVN, một vài nhượng bộ áp lực dân chủ hóa cũng đã xẩy ra, với những bước tiến rất dè dặt, tương tự như theo một nấc thang tuần tự và thận trọng, được rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu những áp lực thay đổi từ bên ngoài kể trên cũng góp phần đáng kể vào nỗ lực thúc đẩy cởi mở chính trị đối với giới làm chính sách Việt Nam, động lực chính yếu có tiềm năng thúc ép ÐCSVN đi vào con đường cởi mở chính trị thực sự sẽ phát xuất từ nhu cầu hội nhập với thế giới bên ngoài.

VI. Nhu cầu hội nhập toàn cầu và áp lực dân chủ hóa bên ngoài

Một khi đã quyết tâm gia nhập vào cộng đồng thế giới vì nhu cầu nuôi dưỡng đà phát triển kinh tế, Việt Nam không còn con đường nào khác hơn là phải thỏa mãn những điều kiện gia nhập để được chấp nhận tham gia vào sinh hoạt kinh tế-mậu dịch chung của thế giới. Mức độ phát triển của kỹ thuật tin học, và kỹ nghệ chuyển vận hàng hóa và con người với tốc độ cao, đã thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia, đồng thời thúc đẩy sự hội nhập giữa các quốc gia trên thế giới vào một khối toàn cầu, có liên hệ và ảnh hưởng hỗ tương mật thiết trong nhiều lãnh vực sinh hoạt, từ kinh tế-xã hội, đến văn hóa-chính trị.

Ngày nay, quan hệ quốc tế không còn giới hạn liên hệ giữa hai, hoặc nhiều nước, trong khuôn khổ của thỏa thuận song, hoặc đa phương, được hình thành qua nỗ lực thương lượng giữa các quốc gia liên hệ. Ngoài quan hệ đối xử khác biệt do tình trạng không đồng đều về thế lực và tầm cỡ mà thời nào cũng có, sinh hoạt chính trị toàn cầu chi phối và ảnh hưởng đến sinh hoạt chính trị của từng quốc gia cá biệt. Do trình độ phát triển không đồng đều giữa các quốc gia và khu vực, quan hệ quốc tế ở thế kỷ 21 theo chiều hướng toàn cầu hóa, vẫn mang nhiều tính chất “gia nhập” hơn, theo nghĩa những nước đi sau về trình độ phát triển và tiềm năng kinh tế, nếu muốn chia xẻ sự thịnh vượng chung của thế giới, phải chấp nhận những điều kiện gia nhập vào sinh hoạt toàn cầu, vốn đã được một số quốc gia có địa vị siêu cường quy định, qua trung gian của những định chế kinh tế-mậu dịch quốc tế.

Ði theo ý nghĩa toàn cầu hóa là ý niệm về một “cộng đồng toàn cầu” được thành hình với một tiếng nói phản ảnh quan điểm và lập trường của cộng đồng thế giới về những vấn đề kinh tế-chính trị chung cho toàn cầu, như “trật tự thế giới,” “giá trị toàn cầu,” “quy luật toàn cầu,” vân vân... Cộng đồng thế giới nói trên vượt ra ngoài khuôn khổ của tổ chức Liên Hiệp Quốc và những định chế đa quốc gia hiện hữu, và gồm những siêu cường kinh tế tư bản, đứng đầu là Hoa Kỳ, chi phối những sinh hoạt quốc tế, qua sự liên minh chặt chẽ với một khối lớn đại công ty toàn cầu, vừa hậu thuẫn vừa vận động sự yểm trợ của cộng đồng thế giới để bảo vệ quyền lợi của tư bản trên thế giới, đã được đan lồng vào trong khuôn khổ của những giá trị được đa số các quốc gia công nhận là giá trị phổ quát đáp ứng ước vọng của cộng đồng nhân loại. Công cụ thực hiện chính sách của cộng đồng toàn cầu là những liên minh quân sự; tổ chức mậu dịch thế giới WTO; Diễn Ðàn Kinh Tế Thế Giới World Economic Forum (WEF); Khối G7; G8.. vân vân..

Kể từ sau biến cố 11 tháng 9, 2001, chủ trương phát huy lý tưởng dân chủ trên thế giới lại được nâng lên hàng sách luợc nhắm vào mục tiêu bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ và các đồng minh dân chủ trong cộng đồng toàn cầu. Cũng kể từ đó, mục tiêu chống khủng bố, với ý niệm một “trật tự dân chủ toàn cầu” được thành hình để làm cơ sở cho hai cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq. Tại Trung Ðông, chính sách này có thể biến thành một vết dầu loang, và tác động tích cực trên đường lối chính trị của một số nước Trung Ðông vẫn còn đặt dưới sự cai trị của chế độ quân chủ quyên chế hoặc độc tài như Saudi Arabia và Lybia.

Gần đây, cũng chính áp lực của xu thế dân chủ hóa này đã thúc đẩy Ai Cập đưa ra những dự thảo tu chính hiến pháp để nới lỏng quyền tham gia sinh hoạt chính trị của các đảng phái ngoài chính quyền và ấn định thể chức bầu cử tổng thống trực tiếp, chấm dứt chế độ độc đảng lần đầu tiên trong lịch sử Ai Cập, kề từ khi tổng thống Hosni Mubarak lên cầm quyền vào năm 1981. Vào ngày 28 tháng Hai, 2005, chính phủ Lebanon thân Syria đã phải từ chức tập thể dưới áp lực của những cuộc xuống đường của quần chúng biểu tình đòi bầu cử tự do và Syria rút đoàn quân chiếm đóng. Những cuộc biểu tình xuống đường đòi dân chủ tại Lebanon nối tiếp một hiện tượng đã xẩy ra tại Ukraine vào cuối năm 2004, khi cuộc nổi dậy đòi dân chủ của dân chúng Ukraine, được mệnh danh là “Cách mạng Cam,” đã thành công. Những cuộc chính biến đưa đến sự xụp đổ của chế độ độc tài tại Kyrgyzstan cũng đã được đánh giá như một cuộc cách mạng dân chủ do quần chúng khởi xướng. Mẫu số chung đáng ghi nhận từ những chuyển biến dân chủ kể trên là vai trò trọng điểm của các lượng quần chúng với sự yểm trợ của truyền thông.

Trong khi đó tại Á châu, lãnh đạo Trung Quốc, một lần nữa, lại cho thấy phản ứng tự vệ của Bắc Kinh qua những biện pháp xiết chặt kiểm soát trên sinh hoạt chính trị trong nước, để chống lại sự bành trướng của làn sóng dân chủ toàn cầu.

Về phần Việt Nam, vì nhu cầu hội nhập, Hà Nội đứng trước một lựa chọn quan yếu, vì nếu đi vào con đường hội nhập toàn cầu, với bước đầu là gia nhập tổ chức mậu dịch thế giới WTO, là chấp nhận những quy luật của cộng đồng toàn cầu. Ngoài những điều kiện thuần túy kinh tế-tài chính, việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi những cam kết tuân thủ một số điều kiện có khả năng đưa đến những tác dụng phụ về phương diện chính trị. Những cam kết xây dựng một hệ thống luật pháp công bằng, hợp lý và trong sáng, và mở cửa thị trường dịch vụ cho đầu tư nước ngoài trong các nghành ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông - là những lãnh vực hoạt động kinh tế hiện thuộc độc quyền của các thành phần cột trụ chế độ - sẽ đưa đến hệ quả chính trị không những làm suy giảm vai trò và tầm ảnh hưởng của chính quyền, mà còn có thể hóa giải vai trò lãnh đạo của ÐCSVN trên chính trường Việt Nam trong tương lai.

Trong bước kế tiếp của tiến trình hội nhập toàn cầu, Việt Nam cũng sẽ phải đương đầu với những đòi hỏi có tính chất thuần túy chính trị do Liên Hiệp Quốc và một số tổ chức quốc tế khác chủ trương, đặc biệt là những điều khoản về dân quyền và nhân quyền được ghi nhận trong Tuyên Ngôn Thiên Niên Kỷ của Liên Hiệp Quốc, là một văn kiện mà Việt Nam đã cam kết tôn trọng và thi hành. Ngoài ra, những thay đổi trong sinh hoạt xã hội do đà tăng trưởng kinh tế vào những năm gần đây cũng đưa đến sự hình thành một số lực thúc đẩy chuyển biến trên chính trường Việt Nam.

VII.Những lực thúc đẩy chuyển động nội bộ

Trong số những tác dụng của đổi mới khiến cho ÐCSVN lo ngai nhất là sự nẩy nở của mâu thuẫn nội tại, phá vỡ cái vỏ thuần nhất được duy trì bằng quyền lực. Hầu hết những mâu thuẫn này, từ mâu thuẫn quyền lợi vật chất đến mâu thuẫn đường lối, là hậu quả tất yếu của việc giải tỏa kềm kẹp trên sinh hoạt kinh tế-xã hội để đi vào kinh tế thị trường dựa trên cạnh tranh. Nhu cầu phát triển còn đưa đến đòi hỏi cởi mở trong một số lãnh vực khác để bảo đảm thành quả của nỗ lực phát triển kinh tế và khả năng cạnh tranh với thế giới bên ngoài.

Ngoài ra, còn có một số mâu thuẫn phát xuất từ chính sách chính trị sai lầm của ÐCSVN, như mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, địa phương, đường lối đối ngoại..vân vân.. Hiện nay, những mâu thuẫn này đã trở thành hạt mầm cho những cực quyền lực đối chọi nhau trong một môi trường chính trị Việt Nam ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng.

a.Thành phần đối kháng trong nước

Trong một công trình nghiên cứu sâu rộng về sự xuất hiện của mầm mống đối kháng chính trị tại Việt Nam, Abuza nhận diện 25 khuôn mặt đối kháng quen thuộc - trong đó có một số nhân vật xuất thân từ hàng ngũ trí thức chế độ Việt Nam Cộng Hòa trước đây - đã nổi lên kể từ thời đổi mới vào năm 1987. Mặc dầu con số này khiêm nhường, Abuza cho rằng “những lời chỉ trích chế độ của những nhân vật đối kháng này ảnh hưởng không nhỏ vào uy tín của chế độ,” bởi vì “hầu hết thuộc thành phần thí thức trong đảng và trong quân đội.” Mặt khác Abuza cũng nhận thấy “sự thiếu vắng của một “một phong trào chính trị sinh viên dấn thân, như đã từng thấy tại Ðài Loan và Nam Dương.” Cuối cùng, theo ông, khả năng của thành phấn đối kháng tác động vào thay đổi chính trị tùy thuộc vào văn hóa chính trị đặc thù của Việt Nam.

Gần đây, một số nhân vật đối kháng thuộc thành phần trẻ - đa số gồm thành phần trí thức và chuyên viện tốt nghiệp đại học - đã xuất hiện trên chính trường Việt Nam kể từ khi chi tiết về vụ ÐCSVN nhượng đất và lãnh hải cho Trung Quốc bị tiết lộ ra ngoài. Một số đã bị bắt về tội danh “phát tán tài liệu chống nhà nước và ÐCSVN.” Vào ngày 14 tháng Tám, 2002, nhân dịp đám tang tướng Trần Ðộ - một nhân vật đương thời với Nguyễn Văn Linh, sau đó trở thành một nhân vật đối kháng cực lực lên án chế độ - dư luận báo chí thế giới đã trông đợi thành phần đối kháng trong nước biến đám tang này thành điểm tập hợp cho một cuộc xuống đường đòi dân chủ tương tự như vụ Thiên An Môn. Trên thực tế, “mặc dầu cũng đã có vài lời bầy tỏ chống chính quyền, một cuộc biểu tình rộng lớn không xẩy ra như trông đợi.”

Tuy nhiên, đám tang tướng Trần Ðộ cũng đánh dấu ngày thành lập “Nhóm Dân Chủ,” do một số thành phần đối kháng trẻ khởi xướng. Ðây là lần đầu tiên những thành phần đối kháng công khai thừa nhận một sự phối hợp hoạt động, để “làm điểm tập hợp cho những thành phần đối kháng, và những người chống lại chính sách hiện tại của nhà nước.” vì “nếu phong trào dân chủ không thành công trong việc tự tổ chức thành một thực thể hoạt động công khai, bất kề dưới hình thức nào, thì sẽ khó có thể động viên được sự tham gia của thế hệ trẻ.”

Cho đến nay, khả năng đối phó của ÐCSVN với biến động chính trị vẫn chứng tỏ là khá hữu hiệu, do quyền lực của hệ thống an ninh tình báo của cả hai lực lượng quân đội lẫn công an. Tuy nhiên sự tập trung quyền lực và phương tiện vào các tổ chức nói trên không khỏi đưa đến những di hại khi toàn bộ quyền lực đó được tập trung trong tay lãnh đạo có khuynh hướng độc tài. Từ đầu năm ngoái, sự chống đối của những thành phần từng là nạn nhân của thế lực chuyên quyền trong ÐCSVN đã bắt đầu kết hợp lại thành một nhóm gồm đa số giới chức cao cấp trong hàng ngũ đảng và quân đội đã nghỉ hưu để trực tiếp đối đầu với các thế lực chuyên quyền nói trên. Thêm vào đó, phong trào đòi tự do dân chủ hiện đang bộc phát tại Âu châu và Trung đông trong những năm tháng gần đây chắc chắn sẽ gây tiếng vang trong dư luận quần chúng Việt Nam. Tuy nhiên, tác động của những biến cố này trên tư duy và hành động của quần chúng và chính quyền Việt Nam khó tiên liệu và đánh giá.

b.Tranh chấp phe phái trong nội bộ đảng

Những tài liệu về “Vụ án 'siêu nghiêm trọng' T2-T4,” đã cho thấy sự rạn nứt trầm trọng trong hàng ngũ khối quân đội, vốn đã âm ỷ từ nhiều thập niên, kể từ thời kỳ chiến tranh, cho mãi đến nay mới được công khai hóa. Nội vụ khởi đầu khi bức thư đề ngày 17 tháng Sáu 2004 của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh gửi Trung Ương ÐCSVN phanh phui nội vụ được tiết lộ ra ngoài. Bức thư nêu đích danh những người đứng đằng sau cơ quan tình báo quân đội Tổng Cục 2, và tố giác những hành vi lạm quyền trong cơ quan này, yêu cầu loại trừ họ ra khỏi tổ chức, đồng thời hủy bỏ các văn bản pháp lý thành lập cơ quan này, vì đã ấn định những quyền hạn quá rộng lớn cho Tổng Cục 2 (TC2), một cơ quan tình báo chiến lược của quân đội trong thời chiến. Quyền hạn đó đã tạo điều kiện cho một phe nhóm lạm dụng thao túng và biến TC2 thành một công cụ để theo dõi, đe dọa và dựng hồ sơ vu khống đối thủ chính trị, kể cả những nhân vật cao cấp nhất trong hàng ngũ lãnh đạo.

Vẫn theo đơn tố cáo, TC2 đã bị vận dụng để lũng đoạn tình hình chính trị bằng cách tung tin thất thiệt và dựng vụ để hãm hại đối thủ chính trị, kể từ Ðại Hội VI vào năm 1986, cho đến kỳ đại hội IX vào năm 2001. Với khả năng và phương tiện theo dõi, thu thập và tàng trữ tài liệu về quá khứ của địch thủ chính trị, TC2 đã trở thành một “thế lực đen tối” đe dọa mọi cấp cấp lãnh đạo cao nhất của ÐCSVN, vốn đều có “quá khứ” không muốn bị phô bầy ra ánh sáng, hoặc sợ bị vu khống qua những vụ dàn dựng tinh xảo của bộ máy an ninh TC2.

Kể từ đầu năm 2005, môi trường chính trị Việt Nam bị chi phối bởi sự chuẩn bị cho Ðại Hội X của Ðảng Cộng Sản Việt Nam, dự trù được triệu tập vào giữa năm 2006. Thông thường, năm trước đại hội được dành cho việc chuẩn bị dự thảo báo cáo chính trị và ấn định mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, cũng như đường hướng đối ngoại, cho nhiệm kỳ tới, để sau đó tiến vào việc thương lượng bố trí nhân sự vào Trưng Ương Ðảng và nhân sự lãnh đạo các cấp cho nhiệm kỳ mới.

Cuộc tấn công TC2 cho thấy sự rạn nứt trầm trọng trong hàng ngũ lãnh đạo đảng, đặc biệt là tình trạng phe nhóm trong guồng máy lãnh đạo cao cấp nhất của hai cột trụ triều đình là khối quân đội và công an. Cuộc vận động này có thể góp phần vào việc dọn dẹp môi trường chính trị tại Việt Nam để chuẩn bị Ðại Hội X sắp tới, ngoài ra, tình trạng rạn nứt nội bộ này có thể báo hiệu cho một hiện tượng phân cực rõ rệt hơn trong hàng ngũ đảng, đồng thời cũng sẽ tạo điều kiện cho những chuyển biến tình hình có thể xẩy ra tại đại hội tới, để chuẩn bị cho một sự chuyển hướng trong cả hai lãnh vực chính sách đối nội lẫn đối ngoại.

c.Mâu thuẫn trong chính sách đối ngoại

Những thông tin liên quan đến vụ an TC2 còn cho thấy cuộc tranh chấp này chứa đựng một tầm ảnh hưởng chiến lược có khả năng định đoạt đường hướng đối ngoại tương lai trong nội bộ ÐCSVN, với một chiều hướng duyệt xét lại quan niệm bạn thù. Hiện nay đã có dấu hiệu khá rõ rệt cho thấy đang có một cuộc tranh luận trong nội bộ đảng về mức độ hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, với một khuynh hướng cổ võ việc gia tăng quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ, kể cả trong lãnh vực quân sự, để giảm bớt áp lực của Trung Quốc. Trong quá khứ, mỗi khi vấn đề này được đem ra thảo luận trong nội bộ đảng, những nhân vật có khuynh hướng thân Hoa Kỳ thường trở thành nạn nhân của một chiến dịch đánh phá của các thế lực thân Trung Quốc, như trong trường hợp cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch trước đây.

Nỗ lực của Bắc Kinh nhằm duy trì ảnh hưởng trên chính trường Việt Nam cũng bắt nguồn từ nhu cầu địa lý chính trị chủ yếu để ngăn chặn hai mũi giáp công dân chủ từ Ðài Loan và Việt Nam, trong trường hợp Việt Nam tách ra khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc để tiến mạnh trên con đường dân chủ hóa. Do chủ trương củng cố chế độ độc đảng để duy trì tình trạng ổn định chính trị, Trung Quốc đã tự đặt mình vào thế chống đối trào lưu dân chủ hóa trên thế giới, đặc biệt là những lực thúc đẩy dân chủ hóa do tác động của làn sóng đầu tư và giao thương với Ðài Loan. Sự kiện này tạo thêm một áp lực đối với Bắc Kinh, đồng thời đặt Bắc Kinh trước thách thức xây dựng dân chủ để tiến tới thống nhất. Những nỗ lực chống đối làn sóng dân chủ hóa từ Ðài Loan dưới chiêu bài diễn biến hòa bình cố hữu bắt nguồn từ nguyên nhân đó.

Theo những nguồn tin được tiết lộ ra ngoài, nếu phe chống TC2 thành công trong nỗ lực thuyết phục Bộ Chính Trị giải quyết tận gốc nội vụ, và loại trừ những thế lực đằng sau cơ quan này, sẽ có triển vọng quan hệ đối ngoại tương lai có thể không còn bị lệ thuộc quá đáng vào một chiều hướng thân Trung Quốc. Một số tài liệu liên quan đến vụ án này cũng chủ ý đánh tan những “thủ pháp dùng CIA làm con ngoáo ộp để hù dọa,'' với hậu ý hóa giải những thành kiến còn xót lại trong hàng ngũ đảng cộng sản Việt Nam, lâu nay vẫn cho rằng xích lại gần Hoa Kỳ là cấu kết với kẻ thù. Một số tài liệu nói trên còn có ý muốn xóa tan những úy kỵ trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ qua việc cổ võ cho chiều hướng muốn biến mối quan hệ giữa người dân Việt Nam và Hoa Kỳ trở thành công khai và trong sáng, và nhất là không còn bị đe dọa gán vào những tội danh như làm tay sai hay gián điệp cho Hoa Kỳ. Trước đây không lâu, chỉ cần nói những lời ám chỉ xa gần về một chính sách thân Mỹ cũng bị coi như là một hành động tự sát chính trị.

Nếu thành công, phe chủ trương xích lại gần Hoa Kỳ sẽ triệt phá được “nền văn hóa-chính trị của cung đình Hà Nội là nền văn hóa của bí mật,” giúp công khai hóa những cuộc tranh luận chính trị, và kịp thời ngăn chặn những thế lực bảo thủ được coi như thân Trung Quốc đ㠓dùng Tổng Cục 2 để lũng đoạn vấn đề nhân sự của Ðại Hội IX, đưa tay chân vào nắm lấy chức quyền,” tiếp tục thao túng việc sắp xếp nhân sự chuẩn bị cho Ðại Hội X của ÐCSVN vào năm 2006. Những chuyển biến chính trị nội bộ tương tự như vụ án TC2 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự nới rộng hoạt động chuyển đổi chế độ trong những lãnh vực sinh hoạt chính trị trong nước.

VIII.Kết Luận

Hiện nay, vấn đề dân chủ hóa không chỉ là một thách thức chính trị đối nội, mà còn là một bài toán về chính sách đối ngoại trắc nghiệm khả năng vượt thoát ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc, để đi theo con đường phát triển riêng biệt, phù hợp hơn với nguyện vọng và quyền lợi của dân tộc, thay vì tiếp tục đặt mình vào thế bị động dưới áp lực của Bắc Kinh để cố gắng ngăn cản một xu thế tất yếu.

Ðối với Việt Nam, thách thức dân chủ hóa từ phía cộng đồng người Việt hải ngoại cũng không khác gì thách thức dân chủ hóa của Ðài Loan đối với Trung Quốc, mặc dầu có những khác biệt đáng kể về vị thế và mức độ ảnh hưởng. Trong vòng 15 năm qua, khối lượng đầu tư của Ðài Loan vào các tỉnh duyên hải lục địa Trung Hoa đã gia tăng tính “tương thuộc” giữa hai thể chế khác biệt tại Hoa Lục và Ðài Loan, với phần bất lợi ngả về phía Trung Quốc, vì mức độ lệ thuộc ngày càng sâu đậm của Hoa Lục vào khả năng kỹ thuật và phương tiện của Ðài Loan. Mất khối lượng đầu tư đó, Ðài Loan sẽ phải chịu đựng một cuộc khủng hoảng tài chính có khả năng đưa đến nạn suy xụp kinh tế. Nếu Hoa Lục mất khối lượng đầu tư này, thì sự suy xụp kinh tế sẽ có khả năng kéo theo sự xụp đổ của chế độ.

Hiện nay những tỉnh duyên hải đã trở thành lực kinh tế, không những có khả năng tác động mạnh vào chính sách của Trung Quốc và khiến cho Bắc Kinh phải tự chế đối với Ðài Loan, mà còn mang tiềm năng bành trướng xu thế dân chủ vào Hoa Lục.

Trong nỗ lực của Bắc Kinh để kềm hãm tốc độ của trào lưu dân chủ từ Ðài Loan, một Việt Nam tiến quá nhanh trên con đường dân chủ hóa sẽ tạo thêm một “mũi dùi dân chủ” từ biên giới phía Nam và gia tăng đe dọa cho sự ổn định chính trị của Trung Quốc. Áp lực của Bắc Kinh kềm chế không cho Hà Nội chọn con đường dân chủ nhanh hơn đàn anh cũng không ngoài mục đích ngăn cản mọi nỗ lực của Việt Nam để thoát ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Trong những điều kiện địa lý chính trị đó, chỉ có một quyết định dứt khoát từ phía chính quyền Việt Nam để thực sự tiến vào con đường dân chủ hóa mới có thể phản ảnh ý chí muốn tách khỏi quỹ đạo của Trung Quốc để đặt đất nước vào hàng ngũ cộng đồng dân chủ toàn cầu.

Trong giả thuyết chính quyền Việt Nam chấp nhận trào lưu dân chủ hóa như một xu thế tất yếu đáp ứng nguyện vọng của dân chúng, vấn đề còn lại sẽ chỉ còn giới hạn vào việc nhận diện thứ tự ưu tiên cho những lãnh vực sinh hoạt chính trị cần cải tổ, và ấn định một tốc độ cải tổ khả dĩ bảo đảm được một tiến trình dân chủ hóa trong ổn định, đồng thời đáp ứng được nguyện vọng của mọi tập thể quần chúng trong nước, cũng như những yêu cầu của người Việt khắp nơi. Hiện nay, chưa thấy Việt Nam sẵn sàng vượt thoát ra khỏi sự kềm chế của Bắc Kinh, để đi theo con đường dân chủ hóa bằng những bước đột phá táo bạo theo mô hình dân chủ hóa Ðài Loan.

Ngoài tham vọng của những thành phần đứng ở ngưỡng cửa quyền lực, khiến cho họ cố gắng bảo vệ chế độ để duy trì cơ hội và môi trường thăng tiến, một thực tế khó chối cãi là Việt Nam vẫn còn chịu áp lực mạnh từ phía đảng cộng sản Trung Quốc, qua trung gian một phe nhóm thế lực có những liên hệ quá gắn bó với Bắc Kinh kể từ thời kỳ chiến tranh.

Tại Việt Nam, những thay đổi trong lãnh vực chính trị vào thời gian qua cho thấy Hà Nội chỉ mới bắt đầu có nỗ lực quản lý thay đổi để cố gắng làm chủ tiến trình dân chủ hóa, và thoát ra khỏi thế bị động chính trị. Tuy nhiên, nhưng bước cải tổ này vẫn đi theo khuôn mẫu đang được áp dụng tại Trung Quốc và được nhận diện như một tiến trình dân chủ hóa từng bước rất chậm được chỉ huy từ trên xuống, theo nghĩa “tiến trình dân chủ hóa cơ sở và chính quyền địa phương do sự thúc đẩy của chính quyền, xã hội công dân cũng do chính quyền lãnh đạo, và nền kinh tế thị trường cũng do chính quyền khởi xướng.”

Tuy ÐCSVN đã vượt qua giai đoạn chuyên chính vô sản của thời kỳ trước đổi mới, nhưng cũng chưa dứt khoát bước hẳn vào con đường dân chủ hóa tích cực. Một khả năng nguy hại của thái độ dùng dằng này là dễ tạo điều kiện cho một phong trào chống đối bộc phát, một khi có mồi lửa châm ngòi và làm bùng nổ những lực chống đối đang âm ỷ trong quần chúng.

Trong kịch bản nói trên, một tính toán sai lầm của ÐCSVN trong nỗ lực đối phó với phong trào đòi dân chủ trong nước có thể kích động sự chống đối đang âm ỷ thành một phong trào nổi dậy của quần chúng, tạo tình trạng bạo loạn thúc đẩy sự thay thế chế độ như đã xẩy ra tại Nam Hàn vào thập niên 1980, cũng như tại Ukraine, Lebanon và Kyrgyzstan trong thời gian gần đây. Mặc dầu chưa có dấu hiệu cho thấy kịch bản thứ hai có thể xẩy ra trong tương lai gần, nhưng khả năng vẫn tiềm ẩn, vì đã, và vẫn sẽ tiếp tục, được nuôi dưỡng và phát triển bởi chính đường lối ngăn chặn và đàn áp hiện hữu. Hiện nay, khả năng châm ngòi đó đang xuất hiện ngay trong nội bộ của đảng, với những diễn biến tương tự như vụ án TC2. Nếu quần chúng tiếp tục bị dồn nén, không thể loại trừ khả năng bộc phát một phong trào dân chủ đột khởi, đặc biệt là trong những mốc điểm chính trị quan trọng như đại hội X của ÐCSVN vào năm 2006.

Ngoài ra, trong tương lai không xa, khu vực tư doanh sẽ trở thành một lực thay đổi lớn mạnh, đặc biệt là một khi những chính sách thiếu cởi mở của ÐCSVN đi ngược lại quyền lợi, và gây trở ngại cho nỗ lực phát triển thương mại của khu vực này trên thị trường quốc tế. Một trường hợp trước mắt là thất bại của chính quyền Hà Nội trong nỗ lực gia nhập tổ chức mậu dịch thế giới WTO trước cuối năm 2005. Sự chậm trễ này sẽ kéo theo nguy cơ gia tăng nạn thất nghiệp và phá sản các doanh nghiệp nghề may mặc, một khi Việt Nam trở thành một trong số rất ít những nước sản xuất hàng may mặc vẫn phải chịu chế độ hạn nghạch khi xuất cảng hàng sang Hoa Kỳ - một thị trường hiện đáng giá 2,7 tỷ USD đối với nghành may mặc của Việt Nam - trong khi hàng cùng loại từ các nước Á Châu thành viên WTO, đặc biệt là của Trung Quốc, sẽ tràn ngập thị trường Hoa Kỳ vì không còn phải chịu những hạn chế tương tự.

Hiện nay vẫn cón quá sớm để có thể dự đoán liệu sự thất bại trong nỗ lực gia nhập WTO vào năm 2005 có đưa đến những hậu quả chính trị hay không. Tuy nhiên, hậu quả bất lợi trong lãnh vực kinh tế sẽ mang khả năng tạo thêm mầm mống bất mãn đối với chính quyền và ÐCSVN, nhất là từ phía những thành phần doanh nhân và lao động, là những nạn nhân trực tiếp của tình trạng chậm trễ hội nhập này.

Trong khoảng thời gian gần đây, sự nôn nóng của những thành phần từng nắm chức vụ then chốt trong chính quyền cho thấy triệu chứng một cuộc khủng hoảng lãnh đạo trong trung tâm quyền lực của ÐCSVN. Kịch bản có nhiều triển vọng xẩy ra hơn cả, là một chiều hướng đẩy mạnh sinh hoạt dân chủ trong nội bộ đảng, qua việc khuyến khích những khuynh hướng khác biệt trong Trung Ương đảng. Một số nhân vật, như kinh tế gia Lê Ðăng Doanh và cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, cổ võ cho giải pháp này, qua những bức thư gửi bộ chính trị được tiết lộ ra bên ngoài. Tuy nhiên, những cuộc bàn cãi về “dân chủ,” tựu chung, cũng vẫn chỉ là một hình thức dân chủ trong nội bộ một đảng độc quyền, và phản ảnh một khuynh hướng muốn bảo tồn vị thế lãnh đạo của đảng, nhiều hơn là một nỗ lực nới rộng sinh hoạt dân chủ ra ngoài phạm vi đảng, để tiến tới đa nguyên chính trị.

Cuối cùng, con đường dân chủ hóa tại Việt Nam sẽ tùy thuộc vào cường độ của nỗ lực tranh đấu từ phía các phong trào quần chúng hiện đang manh nha xuất hiện trong nước. Ðường lối phản ứng của chính quyền trước những áp lực đó sẽ phản ảnh thực tâm và khả năng của ÐCSVN để đáp ứng quyền lợi và nguyện vọng dân chủ hóa của người dân, và sẽ là yếu tố quyết định cho sự thành công của Việt Nam trong nỗ lực hội nhập với cộng đồng thế giới.

(Nguyễn Quốc Cường. Hiện làm việc cho Văn phòng Thị trưởng Houston, đặc trách chương trình yểm trợ tiểu thương thiểu số. Trước đây, ông làm đại diện cho hãng hàng không Hoa Kỳ Continental Airlines, Inc. tại Việt Nam. Ông thường viết bài và phân tích thời sự Việt Nam một cho một số báo Anh ngữ, và Việt Ngữ tại Hoa Kỳ. Trước 1975, hành nghề luật sư, và là Chuyên viên kinh tế trong Nhóm Nhiên cứu Kế hoạch Hậu chiến. Sau một thời gian động viên, biệt phái về Phủ Tổng Ủy Dân Vận. Chức vụ chót của ông là Phát ngôn viên Chính phủ cho đến ngày di tản. Ông tốt nghiệp Cử nhân Luật và Cao học Kinh tế tại Trường Ðại học Luật Khoa SàiGòn, và Thạc sĩ Quốc tế học tại Ðại học St. Thomas).

Tài liệu tham khảo

1. Armstrong, Charles K. 2002. Korean Society: Civil Society, Democracy and the State (Routledge).
2. Bone, Robert C. 1962. Prospects for Political Democracy in Southeast Asia (Florida State University Press).
3. Diamond, Larry & Marc F. Plattner, Eds. 1998. Democracy in East Asia (Baltimore & London: The Johns Hopkins University Press).
4. Ike, Nobutaka. 1978. A theory of Japanese democracy (Westview Press).
5. Leng, Tse-Kang. 1996. The Taiwan-China Connection: Democracy and Development Across the Taiwan Straits (Westview Press).
6. Morley, James W. Editor. 1993. Driven by Growth, Political change in the Asia-Pacific Region. (Armonk, New York: M.E. Sharpe).
7. Neher, Clark D. and Ross Marlay. 1995. Democracy and Development in Southeast Asia (Boulder, Colorado: Westview Press).
8. Nguyễn Minh Cần. 2001. Ðảng Cộng Sản Việt Nam qua Những Biến Ðộng trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế (Tuổi Xanh).
9. Nguyễn Thanh Giang. 2002. Suy Tư và Ước Vọng (Toronto: Thời Mới).
10. Robinson,Thomas W. Ed.1991. Democracy and Development in East Asia (Washington, D.C.: The AEI Press).
11. Spence, Jonathan D. 1999. The Search for Modern China, (W.W. Norton New York-London: Castle House).
12. Về vụ án siêu nghiêm trọng liên quan đến Tổng Cục 2, trong Vụ Án 'siêu nghiêm trọng' T2-T4, (Tủ Sách Thời sự VN và Thế giới, 2004).
13. 55/2 United Nations Millennium Declaration, 8 September 2000.
14. World Development Indicators database, World Bank, September 2004.
15. Culture is Destiny, A Conversation with Lee Kuan Yew. Zakaria, Fareed. Foreign Affairs, March/April 1994.
16. Sen, Amartya. Democracy and Social Justice. Lecture presented at the Seoul Conference on Democracy, Market Economy and Development, February, 1999.
17. Pei, Minxin. Economic Institutions, Democracy and Development. Lecture presented at the Seoul Conference on Democracy, Market Economy and Development, February, 1999.
18. Stockton, Hans, Uk Heo & Kwang H. Ro. Factors Affecting Democratic Installation in Developing Countries; An Empirical Analysis. Asian Perspectives, Volume 22, No. 3, 1998.
19. Thái Thị Ngọc Dư. Governance and Participation in Vietnam. Discussion Paper No. 12/2001, February 2001, Institute of East Asian Studies/East Asian Politics at the Gerhard-Mercator-University of Duisburg, Germany.
20. Geithner, Peter F. What Governments Can Do to Encourage Civil Participation. Paper presented to the Conference on Democracy, Market Economy, and Development, sponsored by the World Bank and the government of the Republic of Korea (February 26-27, 1999).
21. Raszelenberg, Patrick. Interviews at the Ministry of the Interior, Hanoi 2000, Discussion Paper submitted to the research project “Political Discourses on Reform and Democratization in Light of New Processes of Regional Community-Building”, Institute of East Asian Studies/East Asian Politics at the Gerhard-Mercator-University of Duisburg, Germany.
22. Mao Zedong and Dulles' "Peaceful Evolution" Strategy: Revelations from Bo Yibo's Memoirs Introduction, translation, and annotation by Qiang Zhai. Cold War International History Project, Woodrow Wilson International Center for Scholars.
23. Yu, Keping. Toward an Incremental Democracy and Governance: Chinese Theories and Assessment Criteria. Project Discussion Paper No. 3/2000, July 2000, Gerhard-Mercator-University of Duisburg, Germany.
24. Loyal Opposition: The Rise of Vietnamese Dissidents. Abuza, Zachary. Harvard Asia Quarterly, Issue 3, March 2, 2002.
25. Dự Ðoán về Tình Hình Chính Trị của Việt Nam trong Năm 2005-2006, Carlyle A. Thayer, bản dịch Nguyễn Quốc Khải. Ngày Nay 1, Tháng 2, 2005.
26. Gathering Places Frank Ching. Honolulu Star-Bulletin, January 6, 2002.
27. Nguyễn Thanh Giang, phỏng vấn trên đài Radio France Internationale (RFI) September 10, 2001.
28. Directors still shy away from equitisation. Vietnam Investment Review. August 5, 2002.
29. Vietnam Leaders in Corruption Case. Thurber, David. Associated Press, September 26, 2002.
30. Sociologists Concerned over Rising Violence in Vietnam. Associated Press, October 2, 2002.
31. An Engagement that Promises Much. Waldron, Arthur. International Herald Tribune. May 4, 2002.
32. Kazmin, Amy. The Financial Times (London) August 28, 2002.
33. Asia: A trickle of democracy in Vietnam. The Economist. London. May 25, 2002.
34. Vietnam OKs Foreign Schools But Keeps Leash Tight. Cohen, Margot. Far Eastern Economic Review. August 1, 2002.
35. Halfhearted Modernity in Vietnam. Chanda, Nayand. International Herald Tribune. February 5, 2002.
36. Vietnam: Party official calls for "proper controls" on Internet use. BBC Worldwide Monitoring, September 20, 2002.
37. Rare discord surfaces at Vietnamese dissident's funeral. Deutsche Presse-Agentur, August 14, 2002.
38. Nguyễn Vũ Bình, as interviewed on BBC Vietnamese Program, June 15, 2002.
39. Chinese Garments Restrain Vietnam. Ellen Nakashima. Washington Post. March 9, 2005.

Quý vị có ý kiến gì về bài viết xin gửi về Diễn đàn BBC ở địa chỉ [email protected] hoặc dùng hộp tiện ích bên tay phải màn hình.

============================================

Cuộc thảo luận quanh chủ đề này đã khép lại. Quý vị có thể xem lại các thư đã gửi về dưới đây.

Phạm Minh Vũ
Tôi đã trả lời ý kiến của Lê Thoa, sao BBC không cho lên nhỉ , BBC không cho đang lên hay BBC sợ ý kiến của tôi bóc trần cái sự thật lếu láo của dân chủ phương Tây, BBC lên án việt nam là kiểm duyệt bài vở thế ý kiến này của bbc thì sao "Đài BBC có thể biên tập lại ý kiến của quí vị và không bảo đảm tất cả thư đều được đăng ", thật lố bịch khi mình đả kích người ta BBC lại làm như vậy. Vậy thì đừng có kêu gào nữa.

Lê Thoa, tpHCM, Việt Nam
Bạn Phạm Minh Vũ ở TPHCM hỏi quả thật là lẩm cẩm. Tôi xin thử đổi các câu hỏi của bạn lại một chút và đem ra hỏi các bậc phụ huynh có con học giỏi xem sao: "Thôi tôi hỏi quí vị một câu là học đại học có phải là liều thuốc tiên không? Quí vị có dám khẳng định học đại học kiểu phương tây sẽ làm cho sinh viên thành giàu có không? Có dẹp được nạn tham nhũng không? Quí vị có dám chắc không? Có dám đem tính mạng ra thề không thưa quí vị?" Hỏi như vậy thì chắc chắn các phụ huynh sẽ trả lời là "KHÔNG", thế nhưng họ cũng vẫn sẽ cố gắng cho những đứa con học giỏi theo học đại học. Tại sao?

Hichic
Cám ơn bác Nguyễn Quốc Cường. Bài viết của bác rất có giá trị, phân tích sâu sắc và dựa trên nhiều nghiên cứu của các học giả uy tín. Bài viết của bác cho cháu thấy được rất nhiều điều bổ ích.

AQ 8X
Thưa anh David Nguyễn, tôi- một công dân thế hệ 8x (sinh những năm 80), xúc động muốn khóc khi đọc những lời anh phân tích. Tôi và rất nhiều bạn trẻ yêu nước ý thức rất rõ tình hình nhiễu nhương của đất nước, nhưng những người bình thường (và 'vô sản' đúng nghĩa) như chúng tôi có thể làm được gì, đóng góp được gì cho công cuộc 'giải phóng dân tộc' (từ anh dùng) đây? Một sự đoàn kết, 'tiếp tay' có thế bắt đầu từ đâu đây? Nhiều trí thức trẻ tại VN đang rất bối rối về con đường của mình trước vận mệnh đất nước. Tôi rất tha thiết nhận được những lời khuyên, lời chỉ giáo của thế hệ đàn anh. Nếu có thể, xin Ban Việt Ngữ đài BBC cung cấp cho tôi địa chỉ email của anh David Nguyễn để chúng tôi có thể trao đổi học hỏi thêm. Xin cảm ơn đài BBC!

Phạm Minh Vũ, HCM, Việt Nam
Nghe nhà nghiên cứu này nói cứ như một ông thánh và chả khác những giọng điệu của mấy bác chống cộng cực đoan, có điều là dùng những mỹ từ. Dẫn chứng của ông ta về tình hình Việt Nam toàn nhân vật khá nổi tiếng như nhà vật lý máy bay Thanh Giang(ngồi nhà mà nhận bằng tiến sỹ) hay ông đại tá Bùi Tín tham gia rất nhiều biến cố như 16 tấn vàng của ông Thiệu, hay chấp nhận đầu hàng. BT toàn quen và đưoc nhũng vị tướng gửi thư thông báo về vụ TC 2, cho dù ông tà người phản bội. Giọng điệu rất lạc quan hình như tôi nghe từ hồi chính thể VNCH còn tồn tại, là chúng ta sắp thắng rồi, sắp dẹp đựơc VC rồi. Cố lên cố lên. Sắp có dân chủ đa đảng rồi chúng ta sắp .... Ôi nhiều quá mà 30 năm rồi mà chẳng thấy gi` chắc đến lúc tôi chết rồi vân chưa thấy gì. Thôi tôi hỏi ông một câu dân chủ có phải liều thuốc tiên không? Ông có dám khẳng định dân chủ kiểu phương tây sẽ làm VN thành cường quốc không? Có dẹp được nạn tham nhũng không? Ông có dám chắc không? Có dám đem tính mạng ra thề không thưa ông?

David Nguyễn, San Jose, Hoa Kỳ
Nhà phân tích thời cuộc Nguyễn Quốc Cường đã phân tích tình hình chính trị, kinh tế của chế độ CSVN rất là hay, rất uyên bác với những ngôn từ của một học giả. Thế nhưng theo cách nhìn vấn đề một cách "dân giả" như những người lao động bình thường như chúng tôi thì việc áp dụng những phân tích có tính cách "bác học" để mà tiên liệu xem CSVN có chịu mở cửa chính trị sau khi hội nhập vào nên kinh tế và xu hướng dân chủ toàn cầu hay không thì chúng tôi tin rằng họ đã không, hiện không và sẽ không. Nguyên các việc các vị học giả tìm đủ tài liệu trên thế giới để mà phân tích cái gọi là "Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN" cũng đã trật lất từ căn bản. CSVN có mở cửa cho "kinh tế thị trường" để cứu nguy cho chính họ, nhưng làm gì có cái gọi "Định hướng XHCN" mà qúi vị học giả phân tích cho tốn công, tốn sức và tốn tài liệu. Ai dám khẳng định rằng thể chế chính trị hiện nay ở VN là "Chủ Nghĩa Xã Hội"? Nếu ông Marx, ông Lenin và có khi cả ông Hồ nữa mà đội mồ sống dậy cũng sẽ khẳng định các đồ tử, đồ tôn của các ông ấy ở Hà Nội chỉ mượn tạm bốn chữ "XHCN" để "lấy vải thưa che mắt thánh" thôi chứ chẳng nhằm nhò gì đến "CNXH" cả. Hoặc giả chỉ có một cái rất là "XHCN" là lập ra một guồng máy "công an trị" mỗi ngày một! xít xao hơn, mỗi ngày một tàn nhẫn hơn đối với nhân dân và nhất là đối với những tiếng nói dân chủ ở trong nước. Nếu họ đã không mang cái "đuôi" XHCN nghĩa thì bảo họ thay đối cái gì đây?

Nếu nói cho chính xác thì hiện nay chế độ CSVN mở cửa cho kinh tế thị trường và được "định hướng xôi thịt chủ nghĩa" mới là đúng nhất. Nói có sách, mách có chứng đàng hoàng. Quí vị học giả có thấy một hiện tượng không giống ai đang xảy ra tại VN hay không. Thế này nhé, Đảng CS, nhà nước, Quốc Hội VN từ bao nhiều năm nay hô hào khản cả giọng về quốc nạn Tham nhũng, hối lộ đã lan tràn từ anh thư ký xã tới hàng...Thứ Trưởng (dĩ nhiên lên cao trên cấp này thì phải ỉm đi). Đảng, nhà nước và Quốc Hội cũng hô hào biện pháp chống tham nhũng, soạn thảo luật này luật nọ để đánh tham nhũng. Nhưng bao nhiêu năm nay tham nhũng hối lộ cứ tăng. Từ những vụ tham nhũng trước đây vài ngàn đô la, vài chục ngàn đô la, rồi một vài trăm ngàn đô la. Đến bây giờ cả nước ngã ngửa ra về vụ một ông Tổng Giám Đốc cá độ bóng đá hơn 2 triệu đô la và người ta hối lộ ông 50.000 đô ông còn không thèm cầm! . Nhân dân bèn đặt ra câu hỏi với chính họ rằng một vị TGĐ tép riu đã giàu và phung phí như thế thì các quan to và siêu to của chúng ta còn giàu tới cỡ nào? Vài trăm triệu đô la? vài tỷ đô la? Nhất định là nhân dân không thể nào còn tin là chế độ của ta là XHCN nữa.

Lại có người nói XHCN thì phải như...Bác Hồ mới đúng chứ. Cả đới Bác không ở biệt thự , villa, bác đi xe ô tô cũng cà rỉ, Bác bảo đi "dép lốp thoải mái hơn...Lúc Bác chết cũng chẳng có trương mục ở nước ngoài nào. Những vị lãnh đạo của chúng ta giàu nứt đố đổ vách như thế thì "XHCN" cái gì nữa. Ngay cả hô hào diệt tham nhũng của các vị lãnh đạo nhân dân cũng chỉ xem là các vị ấy nói cho có nói với thế giới thôi, chứ ai lại dại gì đem tay, dem chân mình ra chặt bao giờ. Đã không còn XHCN mà bây giờ lại xuất hiện ngày càng nhiều những cường hào, ác bá "đỏ", Đại điền chủ "đỏ", đại tài phiệt "đỏ". Vậy thì chế độ chính trị đang cai trị nhân dân VN phải gọi là "THỰC DÂN ĐỎ" mới chính sát. Một năm nhân dân phải đóng bao nhiêu khoản tiền. Dân thành thị đóng các khoản phí còn ít hơn là nông dân nhiều. Đấy không phải là một thứ "thuế thân" như thời pháp cai tri VN hay sao? Đối với một chế độ "quan thầy thực dân" thì làm sao có sự chuyển biến mà phân tích. Muốn lật đổ một chế độ thực dân thì cách duy nhất là nhân dân trong và ngoaì nước phải tiếp tay nhau để làm một cuộc cách mạng đúng nghiã là "giải phóng dân tộc".

 
 
Tên
Họ*
Thành phố
Nước
Điện thư
Điện thoại*
* không bắt buộc
Ý kiến
 
  
Đài BBC có thể biên tập lại ý kiến của quí vị và không bảo đảm tất cả thư đều được đăng.
 
TIN MỚI NHẤT
 
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
 
   
 
BBC Copyright Logo ^^ Trở lại đầu
 
  Trang chủ| Thế giới | Việt Nam | Diễn đàn | Bóng đá |Văn hóa | Trang ảnh |
Chuyên đề| Learning English
 
  BBC News >> | BBC Sport >> | BBC Weather >> | BBC World Service >> | BBC Languages >>
 
  Ban Việt ngữ | Liên lạc | Giúp đỡ | Nguyên tắc thông tin cá nhân