03 Tháng 3 2006 - Cập nhật 09h42 GMT
Lê Diễn Đức
Báo Đàn Chim Việt, Ba Lan
Theo cách so sánh của Quang Linh về “hoàn cảnh xã hội, lịch sử, địa lý” của VN với các nước, liệu bạn có quá tham lam dẫn dắt “hoàn cảnh tương tự” của VN chúng ta đi khắp thế giới hay không? Trên thế giới có bao nhiêu nước trên 50 triệu dân?
Có nước nào trên khắp lục địa Châu Á, Phi, Mỹ, Úc... lại miễn nhiễm gót giày của đội quân viễn chinh phương Tây? Về mặt địa lý nữa chứ... có lẽ phải nằm lọt trong bình nguyên và sa mạc nhỉ, nếu không thế thì ở Châu Á này tìm đâu ra nước có địa hình giao thông dễ dàng?
Bạn cũng đã công nhận với tôi “biểu hiện ở mỗi nước có những sự khác biệt nhất định”, thế nhưng bạn lại không nhắc đến “mức độ” khác biệt đó, bởi nó quyết định tính chất xã hội và ảnh hưởng đến tốc độ của tiến trình dân chủ ở mỗi nước.
Lấy ví dụ đơn giản là Pakistan, 97% dân số theo đạo Hồi, còn ở Việt Nam thì 80,8% không theo đạo nào, đây là sự khác biệt hoàn toàn, là lợi thế tuyệt đối của chúng ta so với Pakistan! Không thể có một xã hội dân chủ thật sự nếu tồn tại song song hai hệ thống luật: luật Hồi giáo và luật của nhà nước.
Tôi không phủ nhận đạo Hồi nhưng tôi cũng không thể tán thành luật lệ của nó, thứ luật hạ thấp quyền của phụ nữ, quyền con người... cho phép ném đá đến chết người phụ nữ ngoại tình ! mà không cần thông qua luật pháp của nhà nước, sẵn sàng chặt tay chặt chân kẻ ăn trộm vặt ngay giữa nơi công cộng...!
Các lãnh đạo tôn giáo luôn ảnh hưởng mạnh mẽ lên tiến trình chính trị, thậm chí họ trở thành những lãnh tụ tinh thần tối cao, họ kiểm duyệt việc ban hành luật lệ của nhà nước có vi phạm các nguyên tắc của đạo Hồi hay không, ngăn chặn những luồng tư tưởng, những sáng tạo và cải tiến khác với quy định của đạo Hồi.
Vai trò của các vị lãnh đạo tôn giáo này thật chẳng khác gì vai trò của các vị lãnh đạo Đảng! Bạn nói rằng Việt Nam có điều kiện chính trị xã hội ổn định hơn các nước trên là nhờ chuyên chính (độc tài) của hệ thống luật pháp một đảng kết hợp với chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Lập luận như vậy thì cũng không hơn gì nếu chúng ta lật ngược lại câu chữ: nhờ truyền thống lao động cần cù và đoàn kết của dân tộc ta “lá lành đùm lá rách”, nhờ khả năng thần kỳ và bản lĩnh của người Việt mà các mâu thuẫn đối kháng không bị đẩy lên cao thành xung đột xã hội như mâu thuẫn sắc tộc, mâu thuẫn tôn giáo... và nhất là nhờ sự cam chịu của dân tộc ta mà chính trị xã hội ổn định, Đảng vẫn duy trì được chế độ chuyên chính (độc tài)!
Quả thật cũng không sai, thực tiễn ở những nơi có mâu thuẫn tôn giáo và sắc tộc sâu sắc thì đả! ng CS cũng không có đất sống, bởi lý tưởng của nó không đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của xã hội là hòa giải các mâu thuẫn này, thậm chí sự xuất hiện của đảng CS tại những nơi đó với chủ trương đấu tranh giai cấp bằng bạo lực, coi tôn giáo như ma túy cần phải diệt trừ (lý thuyết của Marx, Mao...) lại chỉ như đổ thêm dầu vào lửa, làm gia tăng sự hỗn loạn và khoét sâu thêm các mâu thuẫn vốn có do lịch sử để lại.
Bạn lo ngại: “Nhìn vào lịch sử dân tộc thời loạn 12 sứ quân, thời Trịnh Nguyễn phân tranh, thời thuộc Pháp, thời Việt Nam Cộng hòa trước 75 và cả hiện tình cộng đồng người Việt hiện nay ở hải ngoại, tôi nghĩ không nên quá tự tin rằng trong cơ chế đa nguyên thì người Việt không chia năm sẻ bảy, không có hành động gây rối, bạo lực, đảo chính hay chia rẽ như người Philippine, người Indonesia…”, là bởi vì bạn chưa hiểu bản chất các cuộc xung đột qua từng giai đoạn lịch sử.
Thời loạn 12 sứ quân, thời Trịnh Nguyễn phân tranh... là cuộc chiến giành giật quyền lực triều đình trung ương giữa các dòng họ, cuộc chiến bắt đầu thì sự chia rẽ cũng đồng thời diễn ra và nó lại thống nhất khi cuộc chiến kết thúc với kết quả một giòng họ sẽ lập ngôi vị mới.
Nó không phải là cuộc chiến tranh ly khai tôn giáo hay sắc tộc, nó không phải là cuộc cách mạng làm thay đổi các quan hệ xã hội phong kiến, về bản chất, nó là cuộc nội chiến giành ngôi vị - trạng thái vận động chính trị xảy ra liên tục trong các chế độ quân chủ trên thế giới.
Cuộc chiến giữa VN với Pháp thì lại khác, bản chất là cuộc chiến xâm lược và chống xâm lược ngoại bang, nguyên cớ gây chiến xảy ra bên ngoài các mâu thuẫn của mối quan hệ xã hội nội tại.
Cuộc chiến ý thức hệ sau đó cũng là hậu quả của can thiệp ngoại bang, dân tộc ta lúc đó chưa giành được quyền tự quyết con đường của riêng mình.
Nói như thế không có nghĩa bất kỳ cuộc chiến nào cũng chỉ toàn tiêu cực, nó mang cả 2 mặt tiêu cực và tích cực bên trong nó và tùy điều kiện cụ thể mặt nào sẽ chiếm ưu thế.
Lịch sử dân tộc ta chỉ ra rằng khi sự tin tưởng với một chế độ đã đến hồi thoái trào, lợi ích của nhà nước hay những kẻ nhân danh nó đang bị phân rã bởi một bộ máy cai trị thối nát thì lúc đó cũng chính là cơ hội để lực lượng bị áp bức trỗi dậy tiến hành cuộc cách mạng lật đổ ngôi vị: khởi nghĩa Mai Hắc Đế, phong trào Tây Sơn... là những bằng chứng sống động.
Và theo nghĩa ấy trong phạm vi xã hội, Marx-Engels cho rằng: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”.
Như vậy ở vào giai đoạn thấp của quá trình phát triển nhận thức xã hội thì đấu tranh đối kháng (bạo lực) giai cấp vừa là sự áp đặt cai trị, vừa là giải pháp để tiến hành cuộc cách mạng phá vỡ sự cai trị, cải tạo xã hội và đẩy nó lên tầm cao hơn.
Nhưng hiện nay chúng ta đang ở vào thế kỷ 21, thời đại khoa học kỹ thuật đã len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống và có thể đến lúc nào đó con người sẽ lao động bên cạnh tư duy nhân tạo, và cùng với tiến bộ của hạ tầng xã hội thì ở thượng tầng, con người đã xây dựng được các định chế dân chủ vững chắc.
Ưu điểm của xã hội dân chủ là tạo ra động lực phát triển theo cách thức mới, nó giải quyết các mâu thuẫn trong hòa bình, thay thế đấu tranh bạo động bằng bất bạo động - cả một hệ lý thuyết về đấu tranh bất bạo động ra đời, thay đổi này mang tính cách mạng.
Tất nhiên môi trường dân chủ luôn có nguy cơ xuất hiện các mầm mống độc tài gây bất ổn như các đảng tân phát xít, đảng CS... nhưng yêu cầu của dân chủ là tôn trọng luật pháp, nếu có cá nhân, tổ chức, đảng phái nào chủ trương dùng bạo lực thì tự thân việc đó đã phạm luật và không thể tránh khỏi sự trừng trị của luật pháp. Tại sao xã hội bất ổn?
Vì người ta không tôn trọng, không lắng nghe, không chịu tìm và giải quyết các nguyên nhân gây bất ổn.
Trong hoàn cảnh cụ thể của VN, tôi tin rằng người Việt hải ngoại không hề có mâu thuẫn sắc tộc hay tôn giáo với người dân trong nước, nếu họ trở về thì điều họ cần là địa vịa chính trị của họ cùng mọi người dân trong nước phải ! được công nhận bình đẳng như các đảng viên CS, một xã hội của công dân thì tất cả đều phải bình đẳng trước luật pháp.
Tôi tự hỏi rằng liệu thời loạn 12 sứ quân, thời Trịnh Nguyễn phân tranh... có phải là do nhu cầu về hình thái sơ khai của mô hình dân chủ, quyền lực nhà nước là tập hợp của các nhánh quyền lực độc lập (tam quyền phân lập), hay còn gọi là “tản quyền”? Quay trở lại với vấn đề các dân tộc thiểu số và tôn giáo, có thật sự họ đòi ly khai thành nhà nước độc lập và theo giáo phái mê tín dị đoan như Đảng tuyên truyền?
Vì không có tự do thông tin nên ngay như “quyền” được lắng nghe họ nói chúng ta cũng không có, các phiên tòa dạng này đều xử kín.
Tôi chỉ suy luận đơn giản như thế này, nếu người Thượng muộn ly khai để lập nhà nước riêng thì đối với họ hoàn toàn có đủ tư cách coi đây là một cuộc chiến giải phóng dân tộc, để làm được việc đó họ phải có sự ủng hộ mạnh mẽ của quốc tế bằng cách thiết lập ngoại giao với các nước nhằm thu hút viện trợ, phải công khai để có chính nghĩa trong công cuộc giải phóng chứ?
Thế nhưng tôi tuyệt nhiên không tìm thấy bấy cứ một tờ báo hay một tổ chức người Thượng tỵ nạn nào nói hoặc viết ra điều này, lạ thật đấy?! Như vậy vấn đề đặt ra câu hỏi là: “bất công” có phải là nguyên nhân gây bất ổn không? Dưới chế độ dân chủ và độc tài thì chế độ nào có nhiều “bất công” hơn?