Skip to main contentAccess keys helpA-Z index
BBCVietnamese.com
chinese
russian
french
Other Languages
 
24 Tháng 11 2006 - Cập nhật 14h11 GMT
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
Trí thức tinh hoa và nhà nước kỹ trị
 

 
 
Đại hội X
Giới hoạch định chính sách ở Việt Nam phần lớn là đảng viên cộng sản
Kể từ giữa thập niên 90, sau bài phát biểu Nam Trung Hoa của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc thực hiện bước chuyển dứt điểm từ nền chính trị giáo điều sang nền chính trị thực dụng.

Cuộc chuyển biến này đã dọn đường cho sự lên ngôi của tầng lớp tinh hoa mới. Theo quan sát của Lorenz, ký giả của tạp chí Spiegel thì "khi các lãnh đạo Trung Quốc gặp Hồ Cẩm Đào ở Trung Nam Hải, họ có thể nói hàng giờ với nhau về các đường cáp, bộ chuyển mạch, các máy công cụ và thiết bị điều khiển. Chủ tịch Hồ từng được đào tạo về ngành xây dựng thủy điện, trong khi những vị khác từng lấy được bằng cấp về kỹ sư điện, luyện kim hoặc địa chất."

Theo Jame Tong, một chuyên gia về nghiên cứu Trung Quốc ở UCLA, thì cả 9 ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc hiện nay đều là kỹ sư, không có bất kỳ một nhà lý luận nào, không có ai từ ngành tình báo, không có quân nhân chuyên nghiệp, không có ai xuất thân là công nhân, chỉ có một trường hợp là dòng dõi cán bộ cao cấp thời kỳ trước. Cấu trúc quyền lực của Trung Quốc đã thực sự dứt bỏ được khuôn mẫu của nền chính trị giáo điều truyền thống.

Viễn tượng Kỹ trị

Kỹ trị hóa thực sự không phải là một xu hướng mới mẻ, việc đưa giới trí thức tinh hoa lên nắm quyền và áp dụng tri thức - kỹ thuật vào quản lý nhà nước đã được nói tới từ lâu trong các học thuyết chính trị phương Tây. Tuy nhiên, kỹ trị (technocracy) ngày nay không giản đơn là việc giới trí thức lên nắm quyền lực chính trị. Sự "tham chính" của giới trí thức tinh hoa đã trở thành hiển nhiên ở khắp nơi trên thế giới, tuy nhiên chỉ có một số nhỏ các quốc gia được coi là đi theo hướng kỹ trị.

Theo Centeno, giáo sư Đại học Princeton, một nền kỹ trị chỉ được coi là tồn tại khi cả ba nhân tố sau phải cùng tồn tại: Thứ nhất là sự thâm nhập của giới trí thức tinh hoa vào các cơ cấu cao cấp của nền hành chính. Thứ hai là sự lấn át của các thể chế kỹ trị trong các mảng hoạch định chính sách quốc gia quan trọng nhất. Cuối cùng là sự áp dụng rộng rãi các phương pháp và cách nhìn kỹ trị vào hoạch định chính sách.

 Sự "tham chính" của giới trí thức tinh hoa đã trở thành hiển nhiên ở khắp nơi trên thế giới, tuy nhiên chỉ có một số nhỏ các quốc gia được coi là đi theo hướng kỹ trị.
 

Dưới góc độ tổ chức nhà nước dân chủ Tây phương, hệ thống hành chính (bureaucracy) và hệ thống chính trị (political system) là hai thực thể tách rời nhau. Các quyết sách phát triển đất nước được sản sinh từ hệ thống chính trị và thực hiện bởi hệ thống hành chính. Khi bị "kỹ trị hóa", một số thể chế của hệ thống hành chính trở nên lấn át và đảm đương việc hoạch định các chính sách phát triển quốc gia thay cho vai trò hệ thống chính trị.

Đồng thời, việc hoạch định chính sách này được đặc trưng rõ nét bởi việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật. Chính điều đó đã tạo ra một khác biệt rất lớn so với các chính sách sản sinh từ hệ thống chính trị. Thí dụ như việc quyết định xây dựng một cơ sở lọc dầu hay một tuyến đường quốc lộ chiến lược: Nếu như đó là sản phẩm của các nhà kỹ trị, thì nó phải là sản phẩm của việc tính toán kinh tế và kỹ thuật tối ưu. Tuy nhiên, nếu do hệ thống chính trị quyết định, thì nó là sản phẩm của sự mặc cả giữa các thế lực chính trị và rất thường khi phải nhượng bộ tính hiệu quả để đổi lấy sự nhất trí giữa các chính trị gia.

Kỹ trị, Dân chủ và Độc đoán

Kỹ trị ít khi tồn tại trong các nền dân chủ đã trưởng thành. Lý do là trừ trường hợp hệ thống chính trị bị bộ máy hành chính lấn át và vô hiệu hóa (vốn rất hiếm khi xảy ra ở các nền dân chủ trưởng thành), kỹ trị chỉ có thể tồn tại cùng với dân chủ nếu có ba điều kiện căn bản sau:

1. Tồn tại đồng thuận xã hội về đường hướng phát triển quốc gia và các phương thức để phát triển: Trong trường hợp các xã hội độc đoán, đường hướng và phương pháp phát triển đất nước do giới lãnh đạo quyết định mà không cần sự đồng thuận. Trái lại, trong các nền dân chủ, giới kỹ trị chỉ có thể "bắt tay vào việc" nếu có được sự đồng thuận này. Thiếu nó, các chính sách sẽ liên tục bị thay đổi và không thể áp dụng các viễn kiến dài lâu. Đáng tiếc là trong các xã hội đang chuyển đổi, việc đạt được sự đồng thuận xã hội là một việc gần như không thể. Quá trình tái cơ cấu buộc một số nhóm phải hi sinh lợi ích và một số nhóm được hưởng lợi. Việc này về bản chất đã phá vỡ tính đồng thuận xã hội (ví dụ, mở cửa tham gia WTO...)

2. Công chúng sẵn sàng chấp nhận hi sinh lợi ích cá nhân cho các quyền lợi dài hạn của dân tộc: Như đã nói, trong điều kiện giới hạn nguồn lực, việc tái cơ cấu theo các nguyên tắc kỹ trị luôn dẫn tới sự bất bình đẳng giữa các nhóm. Vì vậy, một số nhóm bị bắt buộc phải hi sinh các lợi ích của họ để một số nhóm khác phát triển (nội địa - ven biển; nông thôn- thành thị...). Hi sinh tự nguyện là một việc khó khăn, nếu không muốn nói là không thể, vì thế, các chính sách kỹ trị hiếm khi triển khai được trong các nền dân chủ trưởng thành. Trái lại, trong các xã hội độc đoán, giới lãnh đạo có khả năng thực hiện các biện pháp cứng rắn để đảm bảo cho các chính sách kỹ trị được thực hiện.

3. Các chính sách kỹ trị phải thành công tương đối nhanh: Lòng tin của công chúng vào các chính sách kỹ trị nằm ở chỗ hiệu quả của nó. Vì thế, nếu không đạt được thành công mau chóng, lòng tin này sẽ dễ dàng bị đổ vỡ kéo theo sự ra đi của giới kỹ trị. Tuy nhiên, giới lãnh đạo trong các xã hội độc đoán có thể dùng các biện pháp cứng rắn để gạt bỏ sự chỉ trích từ công chúng, qua đó tạo điều kiện để giới kỹ trị theo đuổi các chính sách của họ.

Như vậy, kỹ trị dễ tồn tại hơn trong các xã hội độc đoán và khó có cơ may được áp dụng lâu dài trong các thể chế dân chủ trưởng thành.

Đông Á: Kỹ trị và Chủ nghĩa Dân tộc

Khi nghiên cứu các nền kỹ trị lừng danh của Châu Á như Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore, Centreno đã phát hiện ra rằng ranh giới giữa hệ thống chính trị và hành chính hầu như không tồn tại. Vì những lý do khác nhau, hệ thống chính trị dân chủ ở các nước này trong suốt các giai đoạn phát triển đầu tiên đã không vận hành bình thường. Do khi một chính đảng luôn nắm quyền kiểm soát tuyệt đối và áp dụng các biện pháp cứng rắn trong quản lý xã hội, thì hệ thống chính trị không thể phát huy được tác dụng như trong các thể chế dân chủ Tây phương. Đảng cầm quyền thống trị bộ máy nhà nước và xóa nhòa mọi ranh giới giữa chính trị và hành chính, vì thế, các nước này ít nhiều mang màu sắc chính trị độc đoán. Các mục tiêu phát triển quốc gia thay vì được đúc rút từ các quá trình dân chủ thì lại được bộ máy nhà nước hoạch định dựa trên viễn tượng phát triển dân tộc.

Mô hình chính trị của Singapore có xuất khẩu được sang các nước khác?

Giới lãnh đạo tự nhận vai trò đại diện cho lợi ích của dân tộc để hoạch đinh đường lối và phương pháp phát triển. Họ cũng sử dụng chủ nghĩa dân tộc làm chiêu bài để gạt bỏ bất đồng. Những nhóm chịu thiệt thòi nếu lên tiếng đấu tranh nhân danh quyền lợi của mình sẽ dễ dàng bị gán ghép là những người vị kỷ, tư lợi hoặc không yêu nước. Lợi ích dân tộc cũng được sử dụng để giải thích và khỏa lấp các quan ngại về bất bình đẳng, kiểm soát xã hội hà khắc và các vấn đề khác. Thí dụ, cựu thủ tướng Singapore, ông Lý Quang Diệu đã tóm tắt triết lý trị nước của mình bằng tuyên bố "Mỗi khi có ai đó muốn tìm cách phá hoại hoặc làm đảo ngược xã hội trật tự, kỷ cương, duy lý này để làm cho nó ủy mỵ và duy cảm, tôi sẽ chặn đứng họ lại mà không phải băn khoăn suy nghĩ gì".

Trung Quốc và Việt Nam hiện nay cũng có nhiều đặc điểm tương đồng với các quốc gia này, cả về mặt quản lý xã hội và việc khơi dậy chủ nghĩa dân tộc.

Con Đường Kỹ Trị ở Trung Quốc

Theo Gongqin Xiao, giáo sư Đại học Thượng Hải, Trung Quốc trong những năm 80 bị giằng xé giữa phái hữu gồm những người cấp tiến muốn thực hiện nhanh chóng cuộc cải cách dân chủ và phải tả gồm những người muốn triệt để tuân theo đuổi đường lối chính trị giáo điều truyền thống. Sự phân cực gắt gao này đã đi đến hồi kết bằng sự tan rã của phái hữu khuynh sau sự kiện Thiên An Môn. Thắng lợi tạm thời của phái tả khuynh tồn tại không lâu và cuối cùng lại bị gạt sang một bên, đặc biệt là sau chuyến thị sát Thượng Hải của Đặng Tiểu Bình.

Trong không khí căng thẳng thời kỳ hậu Thiên An Môn, những nhà kỹ trị đầu tiên do Giang Trạch Dân lãnh đạo đã tạo ra được luồng gió mới hiện đại và thực dụng, vì thế, đã từng trở thành một lực lượng quan trọng và tiến bộ trong xã hội. Cuộc cải cách kinh tế theo hướng thị trường cùng với những thay đổi lớn lao mà nó mang lại đã dành được trọn vẹn tâm huyết của giới trẻ khiến cho phái tả khuynh không còn người kế tục. Trong khi những người thuộc thế hệ cũ ngày càng già đi và rút khỏi chính trường, việc không tìm được lực lượng kế cận đã khiến nhóm này dần dần tàn lụi.

 Giới kỹ trị, không còn phải vướng mắc trong tranh luận ý thức hệ, đã có tự do nhất định để ban hành các quyết định duy lý và hiệu quả
 

Hơn mười năm sau chuyến đi lịch sử của Đặng đến Thượng Hải, tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ chính là sự khẳng định chắc như đinh đóng cột về hiệu quả của đường lối kỹ trị. Tầng lớp tinh hoa được mở rộng cửa để tham gia quản lý nhà nước trong khi thanh niên - sinh viên bị cuốn theo sức hấp dẫn lớn lao của các cơ hội phát triển kinh tế cùng với sức ép việc làm thôi thúc đã quay lưng lại với các vấn đề chính trị. Giới kỹ trị, nay không còn phải vướng mắc trong các ràng buộc và tranh luận vô bổ về ý thức hệ, đã có tự do nhất định để ban hành các quyết định duy lý và hiệu quả khi giải quyết các vấn đề của hiện đại hóa.

Theo Xiao, chế độ hiện tại ở Trung Quốc có thể được coi là "kỹ trị độc đoán" - trong đó cỗ máy kỹ trị được đặt dưới sự lãnh đạo tập trung của các chính trị gia cứng rắn (đầu tiên là Đặng, kế đó là Giang và bây giờ là Hồ) với nỗ lực để đạt được các mục tiêu hiện đại hóa thực dụng, đôi khi thông qua các chính sách độc đoán mang tính ép buộc. Cũng theo Xiao, giới kỹ trị ở Trung Quốc hiện nay không có động lực gì để thúc đẩy quá trình dân chủ hóa xã hội. Xiao thừa nhận rằng tầng lớp trung lưu đang nổi lên sẽ dần dần tạo ra áp lực buộc giới lãnh đạo cấp cao phải điều chỉnh hệ thống chính quyền theo hướng dân chủ. Tuy nhiên ông cảnh báo quá trình này sẽ còn rất dài và gập ghềnh, gian nan.

Việt Nam và Giấc mơ Kỹ trị

Khác với Trung Quốc, Việt Nam không có một "phái hữu" hùng mạnh, mà chỉ có các nhóm bảo thủ và những người theo đường lối trung dung. Công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam, vì thế, không thuận buồm xuôi gió mà luôn bị ách lại bởi sự thận trọng không cần thiết của những người bảo thủ và tinh thần thiếu quyết tâm của những người trung dung. Cho mãi tới vài năm gần đây, cùng với cuộc thương thảo vào WTO kéo dài đã khiến cho những người ủng hộ cải cách và giới doanh nghiệp hầu như hết kiên nhẫn thì các tiếng nói bảo thủ mới tạm lắng xuống. Đã có những tín hiệu cho thấy Việt Nam đang dứt khoát gạt bỏ các tư tưởng và ý thức hệ giáo điều để tập trung vào các mục tiêu phát triển kinh tế thực dụng. Tuy nhiên khó mà biết được liệu đây có phải là chiến thắng vĩnh viễn hay chỉ là tạm thời của những người ủng hộ cải cách.

 Khác với Trung Quốc, Việt Nam không có một "phái hữu" hùng mạnh, mà chỉ có các nhóm bảo thủ và những người theo đường lối trung dung.
 

Sự thiếu dứt khoát trong đường hướng phát triển chung đã kéo theo việc chậm chạp trên con đường kỹ trị hóa. Cho tới nay Việt Nam vẫn chưa có những trung tâm hoạch định chính sách lớn đặt dưới sự quản lý và điều hành của các nhà kỹ trị. Phần lớn các tổ chức của giới kỹ trị chỉ đóng vai trò tư vấn và có thể bị giải tán bất cứ lúc nào (Ban Nghiên cứu Thủ tướng bị giải tán hồi tháng trước là một ví dụ điển hình).

Việc sử dụng các nhà kỹ trị trong bộ máy quản lý nhà nước cũng ở mức thấp. Trong số 26 bộ trưởng hiện nay, chỉ có 8 tiến sĩ và 1 thạc sĩ. Số còn lại đều có bằng cử nhân, kỹ sư. Tuy nhiên, trong số 8 tiến sĩ này, chỉ có 5 người tạm gọi là phụ trách công việc đúng chuyên môn. 3 người còn lại phụ trách các bộ hoàn toàn không dính gì đến chuyên môn của mình (Bộ trưởng Giáo dục là tiến sĩ điều khiển học, Bộ trưởng Ngoại giao là tiến sĩ luyện kim, Bộ trưởng Văn hóa- Thông tin là tiến sĩ kinh tế). Trong số các cử nhân và kỹ sư, lại có người tốt nghiệp đại học tại chức – một dạng đào tạo đại học nổi tiếng là ít có thực chất.

Tuy nhiên, dù thế nào thì Việt Nam vẫn khó lòng né tránh khỏi lộ trình kỹ trị mà các nước Đông Á đã và đang đi qua.

Lý do trước hết là lòng tin của công chúng và sự ổn định của hệ thống chính trị hiện nay đều đặt trên khả năng quản lý và lãnh đạo xã hội chứ không phải vào quá khứ. Người Việt ngày nay đã ít nhìn về quá khứ hào hùng mà tập trung hơn vào vận mệnh trong tương lai. Câu hỏi thường được đặt ra là chúng ta sẽ đi về đâu chứ không phải chúng ta đã từng làm gì; liệu chúng ta có vượt qua được Thái Lan, Singapore hay không chứ không phải là chúng ta đã từng thắng Mỹ và Pháp như thế nào. Hay nói một cách khác, chúng ta không thể đi chậm lại.

Hơn nữa, cùng với quá trình phát triển và hiện đại hóa, nhiệm vụ quản lý kinh tế – xã hội của bộ máy nhà nước ngày càng trở nên phức tạp. Để thực hiện được các nhiệm vụ này, chúng ta không thể dựa vào các nhà chính trị chuyên nghiệp được thăng tiến từ các họat động phong trào hay từ quân đội mà buộc phải dựa vào giới trí thức tinh hoa. Nói cách khác, chúng ta không thể từ chối sử dụng giới kỹ trị trong quản lý nhà nước.

Cuối cùng, giới trí thức tinh hoa mới đang hình thành rất nhanh và sẽ từng bước đòi hỏi tiếng nói của họ phải được lắng nghe. Mỗi năm, có hàng ngàn trí thức trẻ Việt Nam ra nước ngoài để được đào tạo sau đại học, hàng chục ngàn sinh viên đi học đại học, chưa kể những người được đào tạo từ các trường đại học danh tiếng trong nước và quốc tế có cơ sở ở Việt Nam. Chắc chắn Việt Nam sẽ không thể gạt bỏ đội ngũ này để họ làm việc trong các cơ sở tư nhân. Những ngần ngại ban đầu nếu có sẽ bị vượt qua và sự thẩm thấu của giới trí thức tinh hoa mới vào bộ máy nhà nước là điều không thể tránh khỏi.

....................................................................

Giang Thanh
Cán ơn Lê Nguyễn và BBC có một bài viết hay về phát triển. Qua đây, nhận thấy rõ ràng rằng, dân chủ nó là một dạng thức khác nhau ở mỗi quốc gia và mỗi thời kì.

Nói cách khác, các tuyên ngôn về dân chủ do Mỹ hay ai đó áp đặt chỉ là những vỏ bọc cho các ý đồ của các đế quốc mà thôi. (tất nhiên là phải có, và không phải là không tốt, song ở Việt nam và đặc biệt là Việt Kiều hay bị mị dân hoặc cố tình mị dân nên có cái nhìn không tốt về Việt Nam)

Minh Quang
Cảm ơn tác giả Lê Nguyễn đã cho người đọc một bài phân tích tổng hợp khá kín kẽ về một vấn đề nhạy cảm đối với giới lãnh đạo ở Việt nam vốn trước nay rất cố chấp trong việc "tản quyền".

Tuy nhiên điều quan trọng là ngày nay hiện tượng "bằng thật học giả" rất phổ biến từ cấp lãnh đạo cao nhất đến các vị ở địa phương. Chẳng lẽ mang tiếng lãnh đạo trong thời đại mới lại không có lấy những học vị tương xứng? Thế là hàng loạt những cái tên nghe rất kêu như "cao cấp chính trị", "cử nhân luật", "cao cấp lý luận"... gắn liền với những vị lãnh đạo mà phần lớn trong số đó có một qúa khứ học tập khó có thể tương thích nổi với những học vị qúa kêu.

Ai cũng biết những học vị đó là do "phe ta" tự dạy và tự cấp cho nhau thường là trong các trường Đảng. Một chủ tịch quận bận rộn với một núi công việc vẫn có thể có những bằng cấp để sau đó làm lãnh đạo ngành tài chánh, một lãnh vực mà ở các nước văn minh đâu thể dành cho "tay ngang". Hoặc một thanh niên nào đó nhờ "có gốc" được vào làm trong uỷ ban phường xã sau khi học xong phổ thông với học lực không thể so sánh với bạn bè cùng lớp. Chỉ sau một thời gian ngắn nghiễm nhiên có bằng "cử" này nọ và thế là đường quan lộ rộng thênh thang. Kết qủa là các nhà lãnh đạo của Việt nam vẫn "yếm thế" khi tiếp xúc với lãnh đạo các nước khác (luôn có thư ký nhắc tuồng hoặc cầm giấy để đọc...)

Một du học sinh
Bài viết rất hay, phân tích rất thuyết phục. Là 1 sinh viên du học ngành kinh tế ở châu Âu nên tôi có kiến thức cơ bản về kinh tế và hoàn toàn đồng tình với tính hiệu quả của chính sách phát triển kinh tế của giới kĩ trị.

Ngẫm lại thì có thể liên tưởng việc tổ chức của 1 đất nước với việc tổ chức của tập đoàn quốc gia.

Trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay, nếu xem việc tranh đua phát triền kinh tế của các nước như sự cạnh tranh phát triển của các tập đoàn. Những người chủ của công ty (stockholders) thuê 1 nhóm những người tài dể điều hành công ty (CEO, CFO, COO...) thì những người đó phải được toàn quyền quyết định chiến lược phát triển của công ty mà không có sự can thiệp của những người chủ.

Do đó các quyết định của những người trong ban điều hành chỉ chú trọng đến sự phát triển, tăng giá trị của công ty chứ không thỏa mãn lợi ích của riêng chủ sở hữu cổ phần nào cả. Chính phủ do dân bầu nếu được kĩ trị hóa sẽ chỉ quan tâm đến sự phát triển của cả đất nước chứ không chú trọng quan tâm đến lợi ích của phe phái chính trị nào cả.

 
 
Tên
Họ*
Thành phố
Nước
Điện thư
Điện thoại*
* không bắt buộc
Ý kiến
 
  
BBC có thể biên tập lại thư mà vẫn giữ đúng nội dung ý kiến và không bảo đảm đăng mọi thư gửi về.
 
CÁC BÀI LIÊN QUAN
Bóng đêm trên quảng trường St Petersburg
23 Tháng 10 , 2006 | Diễn đàn BBC
TIN MỚI NHẤT
 
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
 
   
 
BBC Copyright Logo ^^ Trở lại đầu
 
  Trang chủ| Thế giới | Việt Nam | Diễn đàn | Bóng đá |Văn hóa | Trang ảnh |
Chuyên đề| Learning English
 
  BBC News >> | BBC Sport >> | BBC Weather >> | BBC World Service >> | BBC Languages >>
 
  Ban Việt ngữ | Liên lạc | Giúp đỡ | Nguyên tắc thông tin cá nhân