22 Tháng 12 2006 - Cập nhật 11h52 GMT
Hồ Xuân Thiện
Nghiên cứu sinh Đại học Oxford, Anh
Trong một thế giới đang chuyển mình nhanh chóng, giáo dục luôn được coi là chiến lược hàng đầu của các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển.
Ở thời đại kỹ thuật và thông tin, sự tụt hậu về tri thức sẽ kéo theo sự tụt hậu của cả quốc gia.
Do vậy, Việt Nam cần phải xây dựng một đại học hàng đầu của mình có tầm vóc ngang hàng với các đại học nổi tiếng của các nước láng giềng. Hiện nay các diễn đàn của một số báo điện tử tại Việt Nam đã đề cập về đại học đẳng cấp quốc tế. Nhân đây, tôi xin đóng góp một số điểm quan trọng sau:
1. Thế giới chưa có hệ thống tiêu chuẩn cho ‘đại học đẳng cấp quốc tế’
Hầu hết các quốc gia đều có các đại học hàng đầu của riêng mình. Ngoại trừ các quốc gia đã phát triển lâu đời và có hệ thống giáo dục rất nổi tiếng như Anh (có ĐH Oxford và Cambridge), Mỹ (Harvard, Viện Kỹ Thuật Công Nghệ Massachusetts - MIT, Princeton, Stanford, Yale), Pháp (ĐH Paris)… các quốc gia khác cũng có một số đại học hàng đầu được nhiều người biết tới. Trung Quốc có ĐH Thanh Hoa và Bắc Kinh, Singapore có ĐH Quốc Gia Singapore, Hàn Quốc có ĐH Quốc Gia Seoul, Đài Loan có ĐH Quốc Gia Đài Loan, Nhật Bản có ĐH Tokyo và Kyoto. Các đại học này đóng vai trò hàng đầu và đại diện về khả năng học thuật và nghiên cứu của quốc gia mình. Người ta có thể đánh giá hệ thống giáo dục của một quốc gia dựa vào khả năng và thành tựu của các đại học hàng đầu của quốc gia ấy.
Tuy nhiên cho đến bây giờ, chưa có hệ thống tiêu chuẩn nào được lập ra để đánh giá rằng liệu một đại học có thuộc vào hàng ‘đẳng cấp quốc tế’ hay không. Người ta chỉ có thể phân các đại học ra làm hai loại chính: đại học nổi tiếng thế giới, và đại học không nổi tiếng, và việc phân loại này cũng dựa theo cảm tính mà thôi. Nói đến Harvard hay Oxford mọi người đều nói đấy là nổi tiếng, nhưng nói đến đại học Florida hay đại học Birmingham thì ta có thể nói các đại học này không phải nổi tiếng lắm, và tất nhiên không phải là hàng đầu. Do vậy, ý kiến cho rằng cần phải xây dựng ĐH có ‘đẳng cấp quốc tế’ là không chính xác.
2. Các chỉ tiêu được sử dụng để so sánh các đại học
Làm sao có thể so sánh các đại học trên thế giới? Hiện nay một số tổ chức quốc tế đánh giá các đại học dựa trên nhiều tiêu chuẩn khác nhau, và không thể dựa vào chỉ một tiêu chuẩn để đánh giá đại học này là tốt hơn đại học khác. Ví dụ như tiêu chuẩn giải Nobel, ĐH Cambridge có 81 giải, ĐH Oxford có 47 giải, ĐH Harvard có 43 giải, tuy nhiên đâu thể nào nói rằng Harvard kém nổi tiếng hơn, hay Oxford có đẳng cấp thấp hơn Cambridge.
Tuy các tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá các đại học rất khác nhau và tuỳ thuộc vào từng cơ quan đánh giá, người ta vẫn dựa vào một số chỉ tiêu chung và cơ bản nhất như: tỉ lệ giáo viên trên sinh viên, số lượng bài báo được xuất bản trên các tạp chí chuyên ngành nổi tiếng, sự thành công của sinh viên sau khi ra trường, số lượng sinh viên và giáo viên quốc tế, số sách trong thư viện… Đã có nhiều bài báo nói về vấn đề này nên tôi xin không phân tích sâu hơn mà chỉ xin tập trung vào vấn đề của Việt Nam.
3. Việt Nam nên làm gì để có đại học hàng đầu
a. Sử dụng các chỉ tiêu so sánh các đại học nổi tiếng để định hướng phát triển
Tất nhiên trong tương lai gần, đại học hàng đầu Việt Nam (ĐHHĐVN) không thể nào trở thành hàng đầu thế giới được. Mục tiêu đơn giản hơn và hiện thực hơn là xây dựng một hoặc vài ĐHHĐVN có tầm vóc lớn nhất quốc gia và có trình độ tương đương với các đại học nổi tiếng của các quốc gia gần cạnh ta như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore.
Để xây dựng ĐHHĐVN, ta cần phải có những chỉ tiêu rõ ràng (đã nói trong mục 2) cho đại học này, chứ không nên cứ là ‘đại học đẳng cấp quốc tế’ chung chung. Điều đấy có nghĩa là ĐHHĐVN sẽ phải có tỉ lệ giáo viên cho mỗi sinh viên cao, xuất bản được nhiều công trình nghiên cứu trên các báo chuyên ngành trên thế giới, sinh viên tốt nghiệp ra trường sẽ có các việc làm tốt nhất trong xã hội, nhiều sinh viên và giáo viên quốc tế, có thư viện chứa nhiều sách và tạp chí (in và điện tử)…
b. Có chương trình học cập nhật và tương đương với các đại học nổi tiếng thế giới
Các chương trình giảng dạy của các đại học nổi tiếng trên thế giới đã được chuẩn hoá. Họ có những nhà nghiên cứu giỏi để xây dựng bộ khung chương trình hiện đại. Các sách tham khảo, tài liệu giảng dạy, bài tập làm thêm, chủ đề thảo luận nhóm… của các môn học này đã được tối ưu hoá cho sinh viên và bảo đảm mang lại kết quả cao nhất. ĐHQG Singapore và ĐH Thanh Hoa đã mua thiết kế và bản quyền sử dụng các tài liệu giảng dạy của một số ngành học của ĐH Harvard và MIT, vì vậy sinh viên các ngành học đấy ra trường có chất lượng cải thiện hơn hẳn so với trước đây. ĐHHĐVN nên sử dụng chương trình dạy học của các đại học lớn, và hoàn toàn độc lập với chương trình khung hiện nay của Bộ GDĐT.
Hiện nay Việt Nam đã có một số đại học của các nước khác đến mở chi nhánh đào tạo như Royal Melbourne Institute of Technology - RMIT (Úc), Asian Institute of Technology (Thái Lan)… Các cơ sở này đã có giáo viên đủ tiêu chuẩn và tuyển sinh viên rất gắt gao cả về trình độ chuyên môn lẫn tiếng Anh.
Ta có thể đề nghị các trường này hợp tác và trở thành một phần của ĐHHĐVN. Các trường này sẽ đào tạo các môn chuyên ngành mà họ có thế mạnh, các môn khác/ngành khác sẽ do các đơn vị khác đảm nhiệm. Như vậy ĐHHĐVN sẽ được sinh viên đào tạo các ngành chuyên sâu và không phải mất nhiều thời gian chuẩn bị, và các trường trên sẽ được giảm tải các môn học cơ bản.
c. Thiết lập các mối quan hệ quốc tế sâu rộng
Các đại học trên thế giới có rất nhiều mối quan hệ rộng. Ví dụ như ĐH Thanh Hoa năm 2004 đã mời 16000 khách quốc tế đến tham quan và làm việc. Khách mời của đại học này bao gồm Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Châu Âu, nhiều nguyên thủ quốc gia, thủ tướng, bộ trưởng, đại sứ của các nước và chủ tịch của các tập đoàn quốc tế như IBM, Wal-Mart, Intel hay BMW, cùng với 7 vị đoạt giải Nobel.
ĐHHĐVN phải giao lưu với các đại học lớn khác bằng cách trao đổi sinh viên và giáo viên, kết hợp cùng nghiên cứu khoa học và xây dựng các khoá học liên kết. Hiện nay trên thế giới cũng có các hiệp hội của các đại học như Universitas 21 (hệ thống các đại học nghiên cứu chuyên sâu), IARU (International Alliance of Research Universities – Liên minh quốc tế của các đại học nghiên cứu), ta có thể đăng ký tham gia để hoà nhập vào môi trường quốc tế.
d. Có nguồn vốn dồi dào để trả lương cao và nghiên cứu
Không phải tất cả đại học có nhiều tiền đều nổi tiếng hơn đại học có ít tiền hơn. ĐH Oxford với 5,1 tỉ USD xếp hạng 10 về trên thế giới về vốn, nhưng lại đứng thứ 4 trong xếp hạng đại học thế giới năm 2005 của tờ Times Higher Education. Trong khi đó ĐH Yale với 15,2 tỉ USD xếp hạng 2 về vốn, nhưng lại đứng thứ 7 trong cùng bảng xếp hạng đại học.
Nhưng như vậy không có nghĩa là không có nhiều tiền thì vẫn có được đại học tốt. Các đại học chiếm vị trí cao trong bảng xếp hạng bao giờ cũng là các đại học giàu với vốn lên đến vài tỉ USD. Harvard có vốn 29,2 tỉ USD, giàu nhất thế giới (bằng 50% tổng GDP của Việt Nam), và vị trí số 1 của Harvard hầu như không bao giờ bị cạnh tranh trong những năm gần đây. Năm học 2004-2005, ĐHQG Singapore có thu nhập từ học phí và các nguồn khác chỉ có 113 triệu USD, nhưng được tài trợ thêm 529 triệu (trong đó chính phủ tài trợ 377 triệu ). Họ sử dụng hết 613 triệu. Tổng số tiền chi năm 2005 của ĐH Oxford là 978 triệu USD, ĐH Harvard là 2,8 tỉ.
Do Việt Nam còn nghèo nên ĐHHĐVN cũng sẽ không có hàng tỉ USD, nhưng đại học này phải có nhiều kinh phí. Các nguồn tài trợ có thể đến từ chính phủ, các dự án nghiên cứu theo hợp đồng, tiền học phí của sinh viên, hay từ các nhà hảo tâm và cựu sinh viên. Câu nói ‘có thực mới vực được đạo’ luôn luôn đúng.
ĐHHĐVN còn phải trả lương cao cho đội ngũ giảng viên. Do có các giảng viên có trình độ cao, đại học này phải trả lương tương đương với đại học nổi tiếng của các nước khác để tránh tình trạng chảy máu chất xám. ĐHHĐVN còn phải trả lương để mời giáo sư thỉnh giảng từ các đại học khác đến, và số tiền này phải bằng hoặc cao hơn mức họ nhận tại các đại học khác.
Do cần nhiều kinh phí, ĐHHĐVN cũng phải lấy học phí tương tự với các đại học nổi tiếng. Tại Việt Nam hiện nay có rất nhiều sinh viên hàng năm đi du học với hy vọng tiếp thu kiến thức hàng đầu của thế giới, và họ sẳn sàng trả học phí vài chục ngàn USD/năm. ĐHHĐVN có thể thu hút các sinh viên này. Điều này sẽ gây ra khó khăn cho các sinh viên nghèo vì họ sẽ không đủ kinh phí để đăng ký học. Vì vậy, đại học này sẽ phải cung cấp nhiều chương trình học bổng bán phần và toàn phần cho sinh viên của mình để hổ trợ các sinh viên không đủ khả năng tài chính. ĐHHĐVN còn phải liên kết với các ngân hàng để mở các khoản vay cho sinh viên và họ sẽ trả dần sau khi tốt nghiệp.
e. Đào tạo thế hệ tương lai có khả năng làm việc xuất sắc
ĐHHĐVN, với mục tiêu tối thượng là phục vụ xã hội, nhằm vào đào tạo đại học và sau đại học với chất lượng tốt và thực hiện nhiều nghiên cứu chiến lược. Sinh viên ĐHHĐVN phải có kiến thức hàng đầu cả nước và tương đương với sinh viên của các đại học nổi tiếng trong vùng như ĐHQG Singapore. Sinh viên ra trường phải có khả năng làm việc tốt trong chuyên ngành của mình, có thể thích ứng theo các điều kiện làm việc khác nhau, nhanh chóng nắm bắt cơ hội và làm việc tốt theo nhóm. Giảng viên và nghiên cứu viên của ĐHHĐVN phải có trình độ quốc tế, và phải được kiểm định bởi các thành tựu mà họ đã đạt được như công trình xuất bản trên thế giới, các giải thưởng thế giới, hay khả năng tìm kiếm dự án quốc tế…
Các đại học trong vùng và quốc tế phải chấp nhận là tương đương, và trao đổi sinh viên/giảng viên/nghiên cứu viên với ĐHHĐVN. Các công ty/ngành công nghiệp phải tìm kiếm sinh viên của đại học này sau khi ra trường để mời về làm việc. Cựu sinh viên sau khi ra trường vẫn giữ một mối quan hệ tốt với đại học và luôn mang theo mình một niềm hãnh diện cùng với tên tuổi của đại học mình.
Một điều quan trọng không kém là đội ngũ quản lý. Tất cả các nhân viên của ĐHHĐVN, từ tổng giám đốc cho đến nhân viên quét dọn, đều một lòng phục vụ. Kiên quyết loại trừ các loại tệ nạn trong giáo dục hiện nay như chạy theo thành tích, dối trá bằng cấp, chạy trường chạy điểm.
........................................................................
Lê Trung, Sài Gòn
Cho dù chúng ta có cố vẽ rồng,vẽ phượng gì lên thân tàu, mà đầu tàu vẫn chưa được thay đổi,thì đừng mong có được một chất lượng mới như mơ ước.
Người ta thường đề cập đến trình độ dân trí của một đất nước để đánh giá sự phát triển của đất nước đó. Ngay cả chính quyền của nước đó đôi khi cũng quên rằng "dân" trí ở đây cũng phải bao gồm cả họ.
Tình trạng ở VN thì quý vị cũng đã biết. Lãnh đạo từ thấp đến cao, trong tất cả các bộ ngành, ai hình như cũng đều có bằng đại học. Nhưng chất lượng và xuất xứ của những cái bằng đó thì thật là mơ hồ. Và đa số là những bằng cấp chính trị. Nền GD VN đang mơ rằng trong tương lai sẽ đào tạo ra được một thế hệ toàn là thiên tài. Mỗi một công dân sẽ phải giỏi toàn diện tất cả các môn học. Còn lãnh đạo đất nước thì chỉ cần có "trình độ" chính trị và một lý lịch "tốt" là ok. Bây giờ người ta muốn nhập khẩu một đoàn tàu mới ngoài cái đầu tàu ra, thử hỏi để làm gì nhỉ?
Xuân Nguyên, Hoa Kỳ
Nhà nước cần mở rộng công tác giáo dục cho các tổ chức tôn giáo. Hãy tưởng tượng hệ thống giáo dục đại học Âu Mỹ nếu không có các trường Jesuit hay Tin Lành. Tại Hoa kỳ các trường đại học nổi tiếng bắt đầu như là nhũng trường đạo kể cả Harvard, Yale, Princeton, Columbia. Duke, Boston...
Vịêt nam đang nằm trên một đống tài nguyên vĩ đại với gần 9 triệu ki-tô hữu (7.5 triêu Công giáo, 1.5 triệu Tin lành), một mạng liên kết với 2 tỉ ki-tô hữu trong hầu hết các nước trên thế giới. Nhà nước nên cho thành lập Loyola University tại các thành phố lớn, hoăc Đại Học Tin Lành kiểu Boston University, Duke University, Emory University, Wheaton College, Eastern University..
Hãy theo gương Hàn Quốc cho mời các hệ phái Tin Lành mở trường Đại học. Họ có một truyền thống giáo dục lâu dài tốt đẹp có thể giúp VN giải quyết phần nào vấn đề Đại học, và giúp cho Việt nam vương lên trên đừong tòan cầu hóa và hiện đại hóa.
Vũ Duy, Sài Gòn
Tôi hiện đang là sinh viên của một trường đại học khá "đỉnh" ở Việt Nam. Nhưng sau quá trình học tập trong môi trường này, tôi thấy rằng việc học không giống với những gì tôi mong đợi. Chuyên ngành của tôi là về Tài chính-Ngân hàng, thế mà trong suốt 1 năm trời, tôi chưa hề được đụng tới một chữ gọi là "kiến thức chuyên môn".
Không chỉ riêng trường tôi mà tôi được biết rằng tất cả các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp thuộc sự quản lí của Bộ GD VN đề phải dạy theo một cái khung làm sẵn. Sinh viên phải mất ngót 2 năm trời để "được học" những cái mà sau này ra đời làm việc thật không biết vận dụng vào đâu, chẳng hạn như: giáo dục quốc phòng, Lịch sử đảng CSVN, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Cơ sở Văn hóa VN...
Ngay cả môn Triết, là một trong số ít những môn tôi cảm thấy khá bổ ích nhưng trong giáo trình của BGD biên soạn, tôi cũng thấy nhiều kiến thức không cần thiết, thậm chí hơi vớ vẩn, thế mà vẫn được giảng dạy nhan nhản trên khắp các giảng đường DH.
Như vậy thử hỏi SV Viet Nam sau khi ra trường, với mớ kiến thức hỗn độn như vậy thì làm sao có thể theo kịp sinh viên các nước khác, thậm chí là các SV tốt nghiệp các trường DH quốc tế trong lãnh thổ VN. Tôi chỉ nói là đuổi kịp, chưa nói đến việc cạnh tranh, điều này cần phải xem xét lại.
Phạm Mai Hoa, Hưng Yên
Thật khó cho VN khi muốn nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học.
Chương trình ư? Các trường ĐH thường cóp nhặt của anh này một tí, véo của anh kia một tẹo, nhất là với các trường mới thành lập ít năm gần đây. Việc định số đơn vị học trình cũng hoàn toàn theo kinh nghiệm cảm tính.
Phương pháp dạy học thì mặc dù hàng năm có rất nhiều cuộc hội thảo nhưng hầu như không có gì thay đổi bởi trình độ của giảng viên và trang thiết bị phục vụ giảng dạy, thí nghiệm, nghiên cứu lạc hậu.
Về hợp tác quốc tế? Ở VN người ta hợp tác QT là để mong có tài trợ là chính. Ví dụ Hà Lan cũng đã giúp rất nhiều trường về chương trình, sau khi dự án kết thúc thì người ta lại quay về với chương trình cũ vì trước đó cũng đã làm như vậy với nước khác rồi.
Mỗi lần kêu gọi được sự giúp đỡ của nước nào đó thì các cấp lãnh đạo chỉ giỏi đi khoe về thành tích hợp tác quốc tế của mình.
Trang thiết bị bạn viện trợ thì các quan cho bảo quản cẩn thận đề mỗi khi có đoàn nào đó về thì mang ra khoe. Chưa nói đến bao công họ đào tạo nâng cấp đội ngũ giảng viên cũng trở thành công toi.
Bệnh hình thức nó len lỏi vào mọi nơi mợi chỗ, kể cả ở các trường ĐH. Vậy đó, họ hợp tác QT là để kiếm được tiền chứ không thật sự muốn nâng cao chất lượng đào tạo.
Các đoàn tham quan của Bộ GD&ĐT hàng năm tốn bao tiền của thì họ biến thành các cuộc du ngoạn là chính. Mấy chục năm nay mà chẳng thấy học được gì. Cuối cùng cũng đi đi lại lại mấy ông thứ bộ trưởng, chuyên viên hay vụ này vụ nọ, hay thi thoảng mấy ông hiệu trưởng, bí thư… Họ học tập để định hướng phát triển như vậy đấy.
Bàn ghế, thiết bị văn phòng, xe pháo thì liên tục thay đổi, cứ mỗi lần thay đổi họ lại kiếm bạc tỷ. Chưa nói đến những lãng phí khổng lồ khác, ví như họ luôn kỷ niệm 5, 10, 20… năm ngày thành lập trường. Mỗi lần như vậy chỉ xây dựng mới phòng truyền thống thôi cũng tốn kém bạc tỷ, rồi những tốn kém như đón nhận huân huy chương, mời quan khách… Cộng các khoản đó lại ta mới hình dung ra họ đầu tư thật s! cho giáo dục được bao nhiêu?
Chất lượng giáo dục tại VN thấp và chậm đổi mới không hẳn là do nghèo. Cái chính là do con người (lãnh đạo, đội ngũ giảng dạy) cùng với lãng phí, tham nhũng, sau đó là bệnh thành tích, hình thức.
Khắc Chung, Sài Gòn
Theo tôi nghĩ vẫn đề gíao dục tại VN là vấn đề quá ư là cũ xì. Ai cũng biết cả đấy, nhưng chỉ một nhóm người lãnh đạo là cố tình giả bộ không biết rằng ngành GD của VN đang ở đâu trên thế giới. Cái lạ là ở chổ nghe nói họ cũng là toàn là giáo sư tiến sĩ, viện sĩ...cả đấy.
Mỗi năm dân phải bỏ ra bao nhiêu tiền cho họ viết chương trình đổi mới, cải cách, thay sách giáo khoa xoành xoạch.
Phương pháp dạy thì thiên về hướng nhồi sọ áp đặt là chủ yếu. Và một điều oái oăm nữa là các quí vị "đầy tớ" này luôn tìm cách cho con cháu mình đi học những truờng Quốc tế từ mẫu giáo và những cháu lớn thì họ tìm cách cho đi các trường ĐH danh tiếng hàng đầu thế giới không hà. Không tin cứ thử làm một phóng sự điều tra thì sẽ rõ.
Như vậy là họ cố tình không biết tình trạng giáo dục trong nước là quá kém.
Chỉ cố dạy sao để nhồi sọ lớp trẻ, bưng bít bóp méo mọi thứ làm cho trẻ khi lớn lên gánh chịu tật nguyền về tri thức.
Ví dụ như trong dạy sử họ quy kết vua Gia Long là "cỏng rắn cắn gà nhà", phủ nhận mọi công lao mở cỏi, thống nhất sơn hà của ông...
Tóm lại với lối GD chỉ nhằm mục đích giữ vững hê thống chính trị thì dù cho có triệu triệu lá thư góp ý tâm huyết cũng chỉ được nằm trong sọt rác mà thôi!!! Cũng giống như mới đây họ hô hào dân chúng hãy "Hiến kế chống tham nhũng". Các ông ấy đã biết tham nhũng là những ai rồi mà còn giả vờ mãi. Giáo dục cũng thế mà thôi. Không ai can đảm bỏ lối giáo dục "NHỒI SỌ" đâu.
Giấu tên
Tôi cũng quan tâm đến vấn đề này. Theo tôi, lý luận đông tây gì rồi thì cũng phải quay về với những nền tảng xuất phát: Muốn có đào tạo đại học tốt thì phải có giáo trình ra sao, giáo viên ra sao, đầu vào sinh viên thế nào, rồi cơ sở vật chất?
Giáo trình là một cái vừa dễ vừa khó. Khó ở chổ liệu phía VN có can thiệp mà bắt buộc phải dạy các môn chính trị không?
Giảng viên gặp vấn đề là trình độ giảng viên VN nói chung chưa thể nói là đẳng cấp quốc tế được vì ngay cả nhiều trường lớn hiện nay vẫn còn hiện tượng cử nhân dạy cử nhân và chất lượng đào tạo sau đại học cũng gay go, tiến sĩ giấy hơi nhiều. Đầu vào sinh viên : Hiện tượng cho con ông cháu cha vào học là rất phổ biến ở ngay cả các lớp cử nhân tài năng hiện nay, thậm chí còn len cả vào các chương trình đào tạo cán bộ kỹ thuật 322.