BBCVietnamese.com

04 Tháng 1 2007 - Cập nhật 10h40 GMT

Các emails về bài phỏng vấn Giáo sư Đặng Phong

Sau đây là các điện thư được đăng tải cho đến ngày 03.01.2007 liên quan đến bài phỏng vấn giáo sư Đặng Phong. Bài chính mời đọc ở link bên tay phải.

Thai, Sydney, Úc
Ngay sau khi nắm được chính quyền, những người cộng sản còn là tù binh của ngôn từ của hệ tư tưởng Mác-xít, họ tiến hành mọi công việc kể cả việc đấu tố, tù đày và giết người nhân danh học thuyết này. Nhưng sau khi đã tiến hành cải cách ruộng đất, sau khi đã cải tạo tư bản, sau khi đã hợp tác hoá và sau khi đã giết rất nhiều người (có tài liệu cho rằng có đến 10% dân số các nước xã hội chủ nghĩa đã bị giết trong các cuộc “cải tạo”) mà chủ nghĩa xã hội vẫn không tới thì họ đã nhận ra đấy chỉ ảo tưởng, đấy vẫn chỉ là một điều không tưởng mà thôi. Lúc này, từ “đỉnh cao của trí tuệ loài người” họ đã có trượt xuống vũng bùn danh lợi, tinh thần cách mạng của họ đã nguội lạnh rồi; ngôn từ cộng sản chỉ còn là cái màn che cho đặc quyền đặc lợi phe nhóm.

Bây giờ đảng viên cộng sản có thể làm tất cả, kể cả kinh tế tư nhân, nghĩa là có thể bóc lột giá trị thặng dư, trái hẳn với học thuyết Mác-xít, miễn là Đảng, thực chất chỉ mấy trăm người ở vị trí chóp bu, vẫn còn nắm được quyền lực. Và xã hội như bừng tỉnh, sản xuất phát triển vượt bậc, đời sống khá lên trông thấy. Nhưng ta có thể qui cho đấy là công của Đảng được không?

Trước hết, như nhiều bằng chứng và nhân chứng đã chứng minh: lãnh đạo tối cao của Đảng đã phải đi theo, phải sửa đổi đường lối chính sách sau khi cấp dưới “phá rào”. Thứ hai, qui như thế thì có khác gì một người bị kẻ cướp bóp cổ gần chết nay được hắn nới lỏng tay có thể thở được liền nói: Cám ơn ông! Và thứ ba, nếu không có bộ máy cồng kềnh, gồm t ới những ba nhánh là Đảng, chính quyền và đoàn thể như hiện nay, nếu bộ máy đó không lãng phí và tham nhũng như hiện nay thì thành quả kinh tế còn cao hơn nhiều.

Đơn giản là vì một số người cộng sản nắm quyền đã nhận chân được sự thật rằng làm theo sách thánh hiền Mác-Lê thì tất cả, kể cả họ cũng sẽ chết đói, họ buộc phải trở về với cái lí trí bình thường, cái lí trí không bị các ngôn từ của học thuyết cầm tù nữa. Lí trí bình thường, thậm chí có thể nói lí trí rất trung bình lúc này chính là: Không cần Đảng chỉ đạo nữa, hãy để cho người dân được tự do kiếm sống. Không làm thế thì tất yếu cả dân tộc sẽ diệt vong, mà quan sát khắp cả thì chỉ thấy có Bắc Triều Tiên sẵn sàng chấp nhận con đường tự huỷ như vậy mà thôi. Thoát khỏi gông cùm tự huỷ mà mình đã khoác lên đầu, lên cổ để trở về với lí trí bình thường có tự ngàn xưa lại là một cái gì đó vĩ đại, đáng ca ngợi ư?

NP, Việt Nam
Xin cám ơn giáo sư Đặng Phong. Đọc bài phỏng vấn của ông tôi giúp càng hiểu hơn lịch sử đau thương và anh dũng của dân tộc ta. Sự đi lên của đất nước hôm nay là công sức của hàng triệu người dân lao động Việt Nam cả trong lẫn ngòai nước. Bên cạnh đó cũng tồn tại không ít những kẻ hại dân, hại nước. Còn quá nhiều người chỉ thích ngồi mà rao giảng hoặc kích động hận thù thay vì thực sự mong muốn đóng góp cho quê hương, đất nước bằng việc bắt tay làm một công việc thiết thực dù là hết sức nhỏ nhặt. Mong muốn được tham khảo những bài viết, phân tích nghiêm tục dù đúng sai. Quá chán ngấy với những chửi bới trình độ lùn rồi!

Andyvt,vt
Qua loạt bài "Đêm trước đổi mới" đăng o trên TTO : http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?TopicID=528, tôi thấy những vụ "xé rào" ở miền Nam và ông Lê Duẩn qua đời cũng phần nào ảnh hưởng đến quá trình Đổi mới của đảng. Cám ơn GS Đặng Phong đã cho độc giả BBC những ý kiến rất sâu sắc về Đổi mới ở VN sau 20 năm.

Nguyễn Phong, Du học sinh tại Houston, Hoa Kỳ
Trước hết xin cám ơn BBC và Giáo Sư Phong đã cho đọc bài viết hay. Bỏ qua những bài viết mang tính cực đoan của một số bạn trên diễn đàn thì có thể thấy rằng bài của Giáo Sư rất trung thực và không thiên vị nhiều cho một bên nào. Đặc biệt là tôi thích phát biểu cá nhân của GS : "Trước hết tôi phải nói rằng, tôi đi rất nhiều nước ở Mỹ, ở Châu Âu, ở Úc, tôi gặp rất nhiều người Việt Nam và họ đưa ra rất nhiều những chủ trương mà tôi thấy khó có thể chấp nhận được". Đây là một sự thật mà nói ra rất dễ đụng chạm nhưng GS đã can đảm nói ra. Tôi mong ngày mình có cơ hội gặp được GS bằng xương bằng thịt, mặt đối mặt để nói chuyện. Vẫn luôn hy vọng VN còn nhiều người như GS Đặng Phong.

Phạm Mai Hoa, Hưng Yên
Charlie, Phan, New York! Tại sao không thấy bạn xuất hiện trên diễn đàn! Ý kiến của bạn rất sâu sắc! Bạn hãy phổ biến tài liệu đó về VN cho các bạn trẻ nghiên cứu! Xin trả lời bạn Du Doc, Úc: Ở VN bất cứ chức danh nào cũng phải có điều kiện tiên quyết phải là ĐVCS. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất là cố giáo sư Tôn Thất Bách con cụ Tôn Thất Tùng.

Phuong, USA
Đọc ý kiến của Tony Cananda; tôi thấy thật hay. Từng đó thôi cũng đủ để mọi người hiểu rõ về CNCS; và Tony đã nói điều Giáo Sư Phong muốn nói mà không nói là CNCS vắng mặt thì đất nước VN tốt hơn. Và tôi xin hỏi GS Phong nghĩ gì về lập luật của Phạm Huy, TPHCM. Và vấn đề "lương tâm" của Tony ở Canada.

Dang Viet Duc, Hà Nội
Tôi đồng tình với quan điểm của giáo sư Đặng Phong. Cảm ơn ông vì đã cung cấp nhiều thông tin mới và bổ ích. Đọc nhưng comment của các độc giả tôi xin trích một ý của ông Đặng Phong để nêu quan điểm của mình là ngồi trên ghế xalong ở nước ngoài, uống rưou wisky để bàn về sự phát triển cho dân tộc Việt Nam này thì thật đáng nực cười.

Theo tôi, lịch sử là một quá trình khách quan nhất, vậy nên không thể phán xét lịch sử. Chỉ những sự hận thù mù quáng mới đi phán xét thậm chí chửi bới lịch sử. Dưới con mắt của thế hệ thanh niên Việt nam như tôi, điều mà tôi thấy rõ ràng nhất là thế đi lên của dân tộc Việt Nam hiện nay là rõ ràng và tất yếu không thể đảo ngược. Đảng Cộng Sản đã làm nên một thế kỷ thứ 20 sáng chói trong những trang lịch sử của dân tộc Việt Nam và bác Hồ là đại diện ưu tú của dân tộc Việt Nam với phương châm : Dĩ bất biến, ứng vạn biến.

Van Minh, Hà Nội
Bạn Phan Huy không nên vặn vào câu chữ như thế! Ông Hồ không quay 180 độ để trả thù lại người Mỹ, mà ông Hồ chỉ đấu tranh để dành độc lập cho Việt nam không phải để trả thù người Mỹ. Chính người Mỹ đã phản bội ông Hồ, Việt minh đã đứng về phía Đồng minh để chống lại Phát xít. Nếu năm 1946 ông tổng thống Mỹ Roosevelt còn làm tổng thống thì có thể Nước Mỹ đã ủng hộ cho Ông Hồ. Tiếc là ông Turman đã không làm như thế mà quay lưng lại ủng hộ cho Pháp tái xâm lược Việt nam, nên mới xảy ra chiến tranh đẫm máu 9 năm với Pháp,20 năm với Mỹ. Sai lầm này người Mỹ phải chịu trách nhiệm nhiều hơn nhưng hậu quả thì người Việt nam phải gánh chịu.

Ông Hồ thực ra không phải như tuyên truyền của đảng cộng sản là Ông Hồ đã thấy chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được VN mà ông Hồ có thể có con đường riêng theo mô hình học tập từ nhiều quốc gia văn minh. Ông Hồ không hoàn toàn là một người cộng sản mà là một người yêu nước,ông Hồ không theo đuổi lí tưởng cộng sản mà đấu tranh cho độc lập của đất nước.Nếu ông Hồ không đứng về phe cộng sản để tranh thủ sự ủng hộ của họ thì Việt nam không thể có được toàn vẹn lãnh thổ, chiến tranh là giải pháp cuối cùng cho mục đích ấy.

Cho tới nay Việt nam vẫn là nước nghèo trên thế giới nhưng không phải là một nước nghèo nhất nhì trên thế giới, càng không phải là nước chậm tiến nhất nhì thế giới,điều này thật rõ ràng ai cũng thấy, tốc độ phát triển kinh tế của việt nam năm vừa rồi đạt trên 8 phẩy,đã phát triển liên tục trên 20 năm và Việt nam cũng được thế giới công nhận là có thành tích cao trong việc xóa đói giảm nghèo, công bằng hơn trong phát triển kinh tế.

Việt nam đang có mục tiêu đến năm 2010 thì đưa Việt nam thành nước có mức thu nhập trung bình, khi đó chúng ta không còn xấu hổ vì mang tiếng là nước nghèo nữa.Việt nam còn nghèo vì chúng ta có thời gian xây dựng đất nước chưa dài, chỉ có 30 năm hòa bình sau hàng thế kỉ chiến tranh gành độc lập. Chúng ta xây dựng đất nước từ đống đổ nát của chiến tranh, từ nền kinh tế nông nghiệp truyền thống lâu đời và lạc hậu. Thành quả 30 năm hòa bình như vậy là rất tốt rồi.

Pham Huy, HCM
Ông Văn Minh- Hà nội viết, xin trích nguyên văn: "Tôi nghĩ nếu những năm 1940 Mỹ giúp đỡ Việt nam giành độc lập thì ông Hồ không đi theo chủ nghĩa cộng sản, mục tiêu của ông Hồ là giành độc lập vẹn toàn cho Việt nam và xây dựng đất nước giàu mạnh. Ông Hồ không phải là một người cộng sản bảo thủ, nếu Mỹ giúp đỡ Việt Nam thì có thể bây giờ Việt nam có thể là một nước cộng hòa và đa đảng và đân chủ như Pháp hoặc Mỹ bằng chứng là năm 1946 việt nam có một quốc hội đa đảng do ông Hồ lập nên, và ông Hồ đã mời Vua Bảo Đại làm chủ tịch nước."

Theo cách giải thích của ông Văn Minh nói lên ông HCM là người không có bản lĩnh và nhỏ nhoi, người ta ( Mỹ) không giúp mình thì mình theo CS để chống lại Mỹ, chứ ông không có một đường lối rõ rệt để giành độc lập và đưa đất nước vào hướng nào. Tài liệu VN thường đưa ra về chủ tịch HCM là khi ông rời đảng Xã hội Pháp, gia nhập đảng CS và sau đó qua Liên Xô ông đã thấy chỉ có chủ nghĩa CS mới cứu VN giành độc lập và đưa VN lên phồn vinh ...Vậy thì cái nào đúng, cơ hội vàng bị lỡ hay lý tưởng CS của HCM.Và theo cách lý luận như vậy thì Cọng hòa đa đảng là phương cách tốt nhất để đưa VN đến phồn vinh? mà bác Hồ vì Mỹ không giúp mà đã quay đi 180 để cho tơi nay VN vẫn còn là nước nghèo và chậm tiến vào loại nhất nhì thế giới?

Nho Nha, Moscow, Nga
Nho Nha cảm ơn GS Phong đã nói ra nhiều điều để nhiều người hiểu biết thêm những uẩn khúc trong lịch sử Việt Nam. Đọc những ý kiến của các thính giả tôi nhận thấy rằng vẫn còn quá nhiều hận thù và oán trách trong con người Việt Nam ta. Chúng ta không nên quá khắt khe với Giáo sư Phong vì GS đang ở Việt Nam, không thể nói hết được.

Du Doc, Úc
Xin hỏi, ông Đặng Phong có phải là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam hay không? Tôi nghĩ đây là một câu hỏi đúng đắn và có nghĩa. Một sử gia chân chính, đồng thời là đảng viên của một đảng phái chính trị, điều này có mâu thuẫn và dẫn đến xung đột quyền lợi hay không???

Charlie, Phan, New York
Những nghiên cứu và hiểu biết về lịch sử rất quan trọng cho đất nước vì nó giúp ích cho những người quan tâm; dù ra mặt hay không ra mặt, dù trong hay ngoài nước, dù Nam hay Bắc thấy rõ chúng ta đang ở đâu, những dân tộc và thế lực mạnh của thế giới nghĩ gì, muốn tương tác với chúng ta như thế nào. Chúng ta cần hành động, tuyên bố, diễn tuồng như thế nào, và nhất là để khỏi đánh mất những cơ hội tốt cho đất nước trong hiện tại cũng như tương lai.

Tuy nhiên, để hiểu được những gì xảy ra cho Việt Nam trong thời gian cận đại, chúng ta cần phải đi ngược giòng lịch sử gần trên 2000 năm của xã hội loài người thì, may ra, chúng ta sẽ ngộ được, và sẽ làm gì để khỏi đánh mất những thời cơ. Vì tính chất giới hạn của bài viết, những phần sau có thể chứa đựng một số mã số mà độc giả nên tự tìm hiểu.

Qua lịch sử của loài người chúng ta thấy rằng: Một trong những yếu tố lớn nhất để con người xung đột, chiến tranh, hủy diệt lẫn nhau là sự bất đồng quan điểm về siêu nhiên (supernatural) của một số tôn giáo lớn. Sự bất đồng quan điển về siêu nhiên này đã và đang tác động cũng như hình dạng hóa xã hội loài người. Ở Trung Đông, trước mốc điểm thời gian của năm zero, đã có những tôn giáo khác nhau, như người đạo thờ Thượng đế của Do Thái, đạo thờ Mặt trời. Sau đó thì có ba tôn giáo lớn ra đời, đó là Do thái giáo, Thiên chúa giáo, và Hồi giáo. Ba tôn giáo này đã dùng chung quyển Kinh thánh cựu ước (Old Testament) của Do thái giáo. Người Do thái, qua thánh kinh của họ đã làm cho họ nghĩ rằng người Do thái là loài người đặc biệt được lựa chon bởi Thượng đế. Sự đặc biệt này, dù đúng dù sai, đã mang lại cho Do thái, một dân tộc ít người, nhiều nguy hiểm và có nguy cơ bi diệt vong.

Karl Marx, Leon Trotsky, và nhiều thành viên của Bolshevik’s Central Committee của đảng CS vào thời đó như Yakov Sverdlov, Karl Radek, Lazar Kaganovich, … là những người gốc Do thái. Theo Conspiracy theories, những International bankers đã tài trợ nhiều projects lớn của thế giới như chủ nghĩa Cộng sản chẳng hạn.

Trong thế chiến II, người Do thái đã bị giết hàng triệu người ở Âu châu bởi Đức quốc xã, cầm đầu bởi Adolf Hitler. Adolf Hitler là một tín đồ Thiên chúa giáo. Những xung đột, chiến tranh, xảy ra ở Israel, giữa người Do thái và Palestine và một số nước Hồi giáo chung quanh cho thấy sự bất đồng quan điểm về siêu nhiên giữa Do thái giáo và Hồi giáo.

Bây giờ xin trở lại CNCS ở Á châu. Sau Liên Xô, CNCS đã đi vào Trung Hoa một cách dễ dàng vì nhiều yếu tố khác nhau: Những Vương triều phong kiến cũ không đương đầu nỗi với nền văn minh, chiến tranh nha phiến hay buôn bán nha phiến của Anh (?), và chủ nghĩa thực địa mới thời đó của Âu Châu và Nhật. Trung hoa qua lịch sử thường vỡ tan ra từng nước nhỏ. Do đó tính chất trung ương tập quyền của CNCS cũng rất phù hợp cho một Trung hoa thống nhất. Vào thời đọan của thế chiến thứ hai, CNCS rất hấp dẫn vì nó là một công cụ tốt để đánh đuổi thực dân. Những người CSVN đã dùng CNCS để đạt được điều họ muốn là đánh đuổi được thực dân với một tổn thất quá lớn về tính mạng của nhân dân. Tuy nhiên, một chủ nghĩa tốt cho việc đánh đuổi thực dân, giữ an toàn cho uy quyền lãnh đạo từ những cuộc đảo chánh lật đổ không nhất thiết là sẽ làm cho quốc gia đó cường thịnh về kinh tế.

Một cách khách quan mà nói, CNCS đã thất bại trong việc điều hành kinh tế của xã hội. Đa số nước nào theo CNCS cũng có một nền kinh tế nghèo nàn tụt hậu. Một quốc gia giàu mạnh về kinh tế, người dân dễ kiếm sống, thì chuyện tham gia đảng phái và tham chính không còn là một chuyện quá quan trọng. Khi tham chính không còn là chuyện quan trọng thì những quyền tự do cơ bản cho con người sẽ dần được mở ra và tham nhũng cũng tự nhiên giảm thiểu.

Những mã số của CNCS mà VN cần nghiên cứu là CNCS do ai, do hoàn cảnh nào đẻ ra, ai tài trợ cho nó. CNCS chỉ đơn thuần là những giải quyết về ý thức hệ hay nó liên quan gián tiếp như thế nào với những bất đồng về siêu nhiên của những tôn giáo lớn. Tại sao CS Đông Âu tan rã? Tại sao Trung hoa phải xét lại? Bắc hàn và Cuba sẽ ra sao? VN chúng ta sẽ ra sao với chủ nghĩa này? Lòng yêu đảng và yêu nước nhiệt tình của các đảng viên CS thiếu kiến thức về khoa học, về kinh tế toàn cầu sẽ đưa VN về đâu? Ai chịu trách nhiệm về những hành động quá khích và sai lầm CNCS như giết hại địa chủ, tịch thâu tài sản của nhân dân trong cải cách ruộng đất, đánh đổ tư sản mại bản?

Vì lý thuyết tự tìm con đường giải thoát của bản thân ra khỏi vòng sinh lão bệnh tử, và ai cũng có thể thành Phật nếu chịu tu luyện. Vì vậy, Phật giáo thường đứng ngoài sự tranh chấp về siêu nhiên. Sự tự tu luyện và tự giác ngộ để giải thoát bản thân dẫn đến chỗ tự tại, dễ chấp nhận những tôn giáo khác bên cạnh nên đôi khi bị sự đàn áp hay lấn át của những người có tôn giáo khác. Do đó, yếu hay mạnh của Phật giáo tùy theo tiêu chuẩn phán đoán của mỗi người.

Một lực lượng thế tục rất mạnh trong bàn cờ tranh chấp về khái niệm siêu nhiên của thế giới là hội Tam Điểm (Freemasons). Những cha đẻ và nhiều tổng thống của Hoa Kỳ sau này là người của hội hay liên quan đến hội này. Lưỡng chính đảng Republican và Democrat chỉ là một trong những nghệ thuật cao trong chính trị Hoa kỳ. Hãy nhìn vào mặt sau của đồng một dollar của Hoa Kỳ và tìm hiểu thì sẽ ngộ ra ảnh hưởng và nghệ thuật chính trị của Hội Tam Điểm đối với Hiệp chủng quốc Hoa kỳ và thế giới.

Trong “In God We Trust”, Hội Tam Điểm đã hợp tan - tan hợp như thế nào với Do thái giáo, Thiên chúa giáo, Hồi Giáo là một đề tài sâu sắc cần tìm hiểu. WTO và phong trào toàn cầu hóa của những công ty và doanh nghiệp là con đẻ của ai? Tôn giáo có đóng vai trò nào hay đứng sau lưng trong chuyện toàn cầu hóa này không? Nếu có , nếu không, VN phải ứng xử như thế nào là những đề tài mà VN cần nghiên cứu.

Cuối cùng, để dễ hiểu, người VN nên tự hỏi CNCS là quân cờ gián tiếp của tôn giáo nào trong bàn cờ tranh chấp về siêu nhiên của các tôn giáo lớn trên thế giới. Sự hiểu biết này sẽ giúp VN dễ ứng xử và khó làm mất những cơ hội trong tương lai. Lịch sử đã diễn ra và sẽ lập lại trong cái vòng lẩn quẩn ở một dạng khác. Cũng như mọi ngành học, sử học và những nhà nghiên cứu sử cần tiên đoán những gì sẽ xảy ra. “Ôn cố tri tân” là vậy. Chúc VN nhiều may mắn.

Van Minh, Hà Nội
Bạn "một thính giả" nói "Đó là chưa kể việc VN phải cắt lãnh thổ và lãnh hải trả nợ cho Trung Quốc sau chiến tranh." thông tin này bạn lấy từ đâu thế? Không bao giờ ông Hồ chí minh làm việc này. Ông Hồ đã đứng lên đấu tranh cho độc lập vẹn toàn lãnh thổ cho Việt nam thì đời nào ông Hồ lại cắt đất cắt biển cho tàu.

Tôi nghĩ nếu những năm 1940 Mỹ giúp đỡ Việt nam giành độc lập thì ông Hồ không đi theo chủ nghĩa cộng sản, mục tiêu của ông Hồ là gành độc lập vẹn toàn cho Việt nam và xây dựng đất nước giàu mạnh. Ông Hồ không phải là một người cộng sản bảo thủ, nếu Mỹ giúp đỡ Việt Nam thì có thể bây giờ Việt nam có thể là một nước cộng hòa và đa đảng và đân chủ như Pháp hoặc Mỹ bằng chứng là năm 1946 việt nam có mộ! t quốc hội đa đảng do ông Hồ lập nên, và ông Hồ đã mời Vua Bảo Đại làm chủ tịch nước.

Tony,Canada
Đứng từ cái nhìn phiến diện của những nhà kinh tế chính trị VN thì là "đổi mới" nhưng đứng trên cái nhìn khách quan của nhà sử học thì "đổi mới"ở VN chỉ thuần túy là "Sửa sai", đi lạc đường nay trở về chính lộ, chỉ là cải tà quy chánh mà thôi nên có gì hay mà "sĩ diện hão".

Nếu đặt ra vấn đề "lương tâm" thì phải đưa nó trở về thời điểm lịch sử khi cộng sản miền bắc dùng thủ đoạn tuyên truyền vẽ lên một miềm nam đói khổ bị bóc lột bởi đế quốc Mỹ, sau đó phát khởi cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn khi phát động chiến dịch giải phóng miền nam.Lúc đó hai tiếng "lương tâm" của những nhà chính trị miền bắc đã bị đánh mất.

Nay khi bị các nước láng giềng bỏ quá xa, VN mới ngộ ra mình đang "Đi theo tấm bảng chỉ đường lộn ngược của chủ nghĩa cộng sản".Nhìn tổng thể đó là một giai đoạn thất bại,nhưng nhìn phiến diện từ tầng lớp "cơ hội ăn may con ông cháu cha" thì đây là giai đoạn "đục nước béo cò" nó tạo ra thế cù cưa giữa bảo thủ và đổi mới, tạo ra thế mâu thuẫn giữa đại đa số nhân dân và một thiểu số nắm quyền là đảng cộng sản VN.

Tôi rất tâm đắc với nhận định của Giáo sư qua đoạn: "Sự vắng mặt của ông Lê Duẩn là điều đáng buồn vì dù sao dân tộc Việt Nam cũng mất đi một chiến sĩ cách mạng lừng lẫy. Nhưng về mặt lịch sử của đổi mới kinh tế thì có lẽ sự vắng mặt của ông Lê Duẩn làm cho thông thoáng cái lộ trình Đổi Mới của Việt Nam" không biết sự suy diễn của tôi có hợp lý không nhưng họa ra từ suy nghĩ của Giáo sư tôi ngộ ra rằng: sự vắng mặt của chủ nghĩa cộng sản và của đảng cộng sản VN sẽ là cái đích điểm cho con rồng VN bay lên trên vòm trời châu Á. Chúc Giáo sư mạnh khoẻ.

PHS, Hà Nội
Người đàn bà mà ông Phong nói là bà Ba Thi - Giám Đốc Thương Nghiệp TP. HCM lúc bấy giờ.

Phạm Huy, tp HCM
Nghe cuộc phỏng vấn GS Đặng Phong rất hữu ích nhưng tôi có những suy nghĩ như sau

1- về cơ hội vàng , Giáo Sư cho rằng người Mỹ đã mất cơ hội vàng dể cứu VN ra khỏi tay thực dân , ai mất cơ hội vàng VN hay Mỹ , làm sao có thể Mỹ giúp VN để VN đứng về phe CS hay nói khác hơn là phe Liên xô để chống lại Mỹ ( hay tư bản)liệu lúc đó Mỹ mà bắt tay với HCM cứu VN ra khỏi tay thực dân thì HCM & đồng chí của ông có không đưa VN theo CSCN thân Liên Xô không? hay là Mỹ giúp cho mọi thứ rồi VN trở cờ, như đã từng trở cờ tiêu diệt các đảng phái chính trị không CS như Quốc Dân Đảng mà Nguyễn Tường Tam từng là bộ trưởng ngoại giao phải tuông chạy thoát thân .v.v.Tôi nghĩ rằng người Mỹ họ đã biết HCM đã rời Pháp qua LX và theo CS thì cớ gì Mỹ lại nuôi ong tay áo

2-Pháp không trao độc lập cho VN dù HCM nài nỉ cũng tương tự như cách suy nghĩ của tôi bên phần 1.

3-Hiệp định Genève,quy định cả hai bên phải tập kết về phần lảnh thổ của mình mà tại sao CSVN lại để cả hàng nhiều chục ngàn Cán bộ đảng viên CS nằm lại bí mật (nói đi tập kết ra Bắc nhưng trốn không đi)có, không tập kết công khai có, và chưa kể vũ khí đạn dược được chôn cất chờ ngày nổi dậy cướp chính quyền, cán bộ CS đi tập kết ra Bắc nhưng vẫn đẻ lại thân nhân vợ hoặc con mưu đồ cho liên lạc tiếp tế ... Như vậy mưu đồ của HCM và đảng của ông đã rõ thì Ngô Đình Diệm phải có kế hoạch bảo vệ chính nghĩa của ông ta chứ, giả dụ miền Bắc VN mà phe QG để lại người nằm vùng thì HCM sẽ có biện pháp gì với họ.

Minh Duc, Montreal, Canada
Ông Andrew Pham ở Australia đặt câu hỏi: ""Miền Đông nam bộ có 21 000 đảng viên mà sau cuộc tổng tàn sát chỉ còn 9000", vậy 21 000 đảng viên C.S.ở lại Miền Đông nam bộ làm cái gì?"

Theo như tôi biết, hiệp Định Genève qui định các cán bộ CS đều phải đi ra Bắc. Nhưng Lê Duẩn đã gài người lại miền Nam và chôn dấu vũ khí để sau này lật đổ chính quyền miền Nam nếu vụ Tổng Tuyển Cử không thành. Bản thân Lê Duẩn cũng ở lại miền Nam để chỉ huy lực lượng CS được gài lại này. Ông Đặng Phong là công nhận có 21 ngàn cán bộ ở miền Nam. Như vậy là đảng CSVN đã vi phạm hiệp định Genève. Nhưng đảng CSVN thì chỉ đổ lỗi cho ông Diệm vi phạm hiệp định Genève.

Giả sử hiện giờ ở VN có một đảng có 21 ngàn đảng viên có vũ trang để lật đổ chính quyền thì chính quyền hiện nay đối xử với họ có khác gì hơn là ông Diệm đối xử với những cán bộ CS không hay là cũng giết và bỏ tù? Trong vụ Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh từ Pháp về để lật đổ chính quyền CS vào thập niên 1980 thì Trần Văn Bá cũng bị xử tử, còn các thành viên khác trong vụ này thì cũng hoặc ở tù hoặc bị xử tử.

Trung, Toronto
Theo dõi Phỏng vấn và đọc lại những điều mà một GS Kinh tế,một nhà Sử học thuộc bậc Trưởng thượng nói ra. Điều đầu tiên là thấy thích thú vì học hỏi được nhiều mình chưa biết. Cám ơn Bác Đặng Phong!

Vì đây là Diễn Đàn thì cháu cũng muốn bày tỏ đôi điều còn vướng bận. Người nghiên cứu và viết sử thì cần phải trung thực và chính xác,khác với người làm công tác tuyên truyền cho chế độ. Theo chủ quan nhận xét thì ý kiến của Bác ĐP bao luôn cả hai vai trò ấy.

Nếu là một chế độ tốt đẹp cho Đất nước và Dân tộc thì không cần gì phải che dấu và biện minh. Khi nói về vai trò của CT Hồ chí Minh,một lãnh tụ yêu nước, một con người hết lòng và hết đời mình lo cho Dân tộc và Đất nước,là một chuyện không cần bàn cãi. Nhưng bác ĐP tránh nói tới Lý tưởng CSCN mà Ông Hồ chọn và dẫn dắt Dân tộc đi theo. Cái Chủ nghĩa không tưởng và Phi nhân bản ấy đối với Thế giới ngày nay thế nào, ai cũng hiểu. Đáng nhẽ ra Bác cũng phải nói sơ qua cái Chủ nghĩa ấy nó đã hoành hành Đất nước ra sao, những tác hại và di sản để lại mà cả Dân tộc phải gánh chịu.

Cụ Hồ là một nhân vật lớn chẳng những của Lịch Sử VN mà còn của cả Lịch sử TG, nhưng Ông đã có thiếu sót. Rất đồng tình với một bạn trong Diễn Đàn là Bác Hồ không có sự lựa chọn nào khác.Điểm lại Lịch Sử VN đầu thế kỷ trước, khi mà CN Thực Dân và Phong kiến đang ở những mức tệ hại, thì hiệu quả nhất là phải đi theo con đường CM vô Sản để cứu giúp Dân tộc. Dù rằng có đọc và thông suốt hết những Kinh Điển dầy cộm của Max,Engen hay Lênin, nhưng không biết Cụ Hồ có lượng định được không? CNCS mà các thời đại sau Cụ,trở thành những dị vật cản đường cho bước phát triển và đi lên của nhân loại.

Andrew Phan, Brisbane, Australia
Lâu quá không tham gia trong diễn đàn này,nay thuận tiện có chút ý kiến xin đóng góp, cảm ơn Anh Chị trong Ban Việt Ngữ Đài B.B.C và luôn mong Mục này mỗi ngày một thêm phong phú. Cảm ơn G.S.Đặng Phong đã nói lên được một phần nào sự thật trong quá khứ cũng như hiện tại xảy ra tại V.N, nhưng có nhiều điều đã xẩy ra mà G.S.Phong không dám nói, điển hình như:"...tôi không hiểu rõ lắm về Tổng bí thư Lê Duẩn ..." là chủ nhiệm một công trình nghiên cứu lịch sử từ 1945 đến 2000, G.S.Phong cần và phải biết thật rõ về vai trò của Ông Lê Duẩn chứ.

"Miền Đông nam bộ có 21 000 đảng viên mà sau cuộc tổng tàn sát chỉ còn 9000", vậy 21 000 đảng viên C.S.ở lại Miền Đông nam bộ làm cái gì ? Ông Diệm biết rõ những đảng viên C.S. nằm lại đó chỉ chờ cơ hội để nổi dậy cướp chính quyền, nên Ô.Diệm đã "tiên hạ thủ vi cường", thử hỏi nếu phía Miền Nam (Ô. Diệm ) để lại cán bộ hoạt động chống lại phía miền Bắc (Ô. Hồ)liệu miền Bắc có để yên cho những cán bộ này hoạt động không? Biết bao những người hoạt động hay thân Pháp trước đây đều bị đi cải tạo hay chỉ định nơi cư trú, mặc dầu họ đã đầu hàng hay không hoạt động cho Pháp hay phe Quốc gia nữa.Còn phe Quốc gia (Ô.Diệm)chỉ giết những người đang hoạt động cho đối phương mà thôi, còn nếu ai từ bỏ C.S.thì cũng trở về bình thường như một người dân.

Nguyễn Van, Köln, Đức
Theo ý kiến riêng tôi Bài phỏng vấn cuối năm Giáo sư Đặng Phong là bài hay nhất trong năm. Ý kiến của một thính giả rất chính xác. Cuối năm Chúc Ban Biên Tập BBC mạnh khỏe hăng say phục vụ thính giả toàn Thế Giới.

Phạm Mai Hoa, Hưng Yên
Tôi đồng ý với GS Đặng Phong về thời kỳ mà ông gọi là “cai sữa” của VN. Rồi những vấn đề do lịch sử để lại từ thời kỳ đầu khi xuất hiện ĐCSVN cũng như hoàn cảnh lúc đó mà các nước nhỏ bị cuốn vào dòng xoáy của “hai phe” nên thực tế VN cũng chẳng có sự lựa chọn nào khác. Cùng thời điểm đó, do lợi dụng được tâm lý của nhân dân với đa phần là nghèo khổ nên ĐCSVN đã lôi kéo được họ để cùng hướng tới mục tiêu độc lập và ‘người cày có ruộng’... Sau đó là chiến tranh triền miên để đến bây giờ người VN ở cả hai miền mới nhận ra là mình cứ tự đánh đấm nhau một cách vô nghĩa.

Cuối cùng đích đến vẫn là bắt tay với tất cả các nước, trong đó có một số nước không thể bỏ qua, đó là Mỹ, Pháp... và nền kinh tế vẫn phải là nền kinh tế thị trường. Gia đình họ mạc nhà tôi cũng bao nhiêu người bỏ mạng ngoài chiến trường vì chuyện đó. Tuy vết thương vẫn còn nhức nhối nhưng hiện nay thì sao? Sau bao nhiêu sai lầm từ quá khứ thì chẳng lẽ ĐCSVN lại vẫn có quyền có những sai lầm tiếp theo? Có thể nói rằng, hiện nay sự độc đoán chuyên quyền của ĐCS - Nhưng thực ra nói cả ĐCS thì lại oan cho những người ĐV tốt bụng - mà phải nói rõ rằng sự độc tài, thâu tóm mọi quyền lực và nguồn lực của đất nước vào tay một số người trong ĐCS và những kẻ cơ hội, con ông cháu cha, mua bán chức quyền...

Còn lại đại đa số các ĐVCS khác và dân chúng đều bị họ lừa phỉnh. Điều này thấy rõ trong mọi cuộc họp của các tổ chức của ĐCSVN, số ĐV đông đảo này không hề có tiếng nói gì. Cho nên, mâu thuẫn hiện nay cơ bản là giữa nhân dân với một số người thực sự có quyền chức, những người được đưa lên nắm quyền bằng các thủ đoạn và việc làm không minh bạch. Tuy ông nói tương đối cởi mở nhưng vì ông cũng là ĐV nên phải nói “Vì chúng ta không thể ép cái hệ thống lãnh đạo Việt Nam hiện nay phải làm như chúng ta mong muốn. Vả chăng họ cũng có những lý do của họ và không những họ có lý do mà họ còn có quyền lực. Họ quyết định đi ở mức độ ấy” chăng? Vậy lý do của họ ở đây là gì? Phải chăng là mắc quá nhiều sai lầm, là ăn quá nhiều nên phải tìm cách “bảo vệ chế độ” mà thực chất là bảo vệ mình? Vậy nhân dân VN ở đâu? Có phải là nó khác với những gì mà họ thường rêu rao với nhân dân và các đảng viên khác không?. Phải chăng là toàn bộ các quan chức nắm quyền thế nhưng không ai được nhân dân bầu bán lên? điều này đã tạo điều kiện cho tình trạng mua bán chức quyền và bè cánh? Phải chăng là họ ngại đối diện với sự thật, không giám công khai minh bạch nên phải lấy thịt đè người? Tôi cho rằng hiện nay người dân VN vẫn đang bị các ĐVCS nắm quyền chức lừa phỉnh. Và như vậy chắc chắn rằng ĐCS sẽ lại mắc hết sai lầm này đến sai lầm khác. Vì rằng dù họ có cấm đoán tự do ngôn luận, tự do báo chí thì họ cũng khó có thể che dấu những toan tính thật sự của mình. Nó chỉ làm tăng lên sự phản kháng trong xã hội với lực lượng tham gia ngày càng lớn mà thôi.

7X, Hà Nội
Lịch sử luôn công bằng và cuộc sống luôn phát triển, không ai có thể cưỡng lại xu hướng đó được. Đến một ngày nào đó (có thể xa hoặc gần) bánh xe phát triển kinh tế sẽ nghiền nát những trở lực, rồi cải cách chính trị sẽ xảy ra mà thôi. Con người VN ngày càng có tri thức thì việc nhận xét đánh giá chất lượng cuộc sống của mình ra sao sẽ công bằng và quyết liệt hơn. Rồi sẽ có cuộc "Đổi mới" mới nữa, chắc chắn đó là cuộc đổi mới chính trị. Điều đó không tránh khỏi, khi các lãnh đạo mới không có tham dự nhiều vào các tranh cãi trong lịch sử.

Le Phong, Đà Nẵng
Tôi thích cách đề cập lịch sử một cách điềm tĩnh như của GS Đặng Phong. Tuổi ấu thơ của tôi là thời kỳ ông Ngô Định Diệm, tôi đã chứng kiến cảnh giết người hàng đêm bên bờ ấp chiến lược. Những xác nông dân trong làng tôi, chỉ sau 1 đêm bố ráp, họ gọi tên là xác Việt Minh. Dưới mắt ông tôi và cha tôi, Việt Minh là người chống Pháp, lính ông Diệm là người thân Pháp. Tôi chạy loạn ra thành phố, chứng kiến những ông sư và phật tử biểu tình chống ông Diệm, tôi cũng ghét ông ta , nên chạy đi xem suốt từ sáng đến trưa, bị cảnh sát đuổi chạy mất cả dép, mũ…

Rồi Cách mạng cộng hoà, nghe đâu ông Diệm bị giết. Khu phố tôi ở chẳng yên đêm nào. Lâu lâu lại có một người bị bắt, xe hú còi inh ỏi, không biết là họ bắt Việt Minh hay người của đảng Cần lao nhân vị của ông Nhu. Tôi lớn lên với thế giới của những bông mai vàng đầy quyền lực, cả một xã hội quen nghe tiếng ĐM như là cách thể hiện quyền uy, đàn anh của đủ mọi sắc lính, mà tiếng đạn lên nòng sắc lạnh đầy đe doạ mọi sự phản kháng. Những ánh mắt cụp xuống của mọi thị dân nghèo hèn. Mỹ qua, tất cả ồ ạt đi làm sở Mỹ, những túi cam táo xúc xích, gạo sấy… thừa từ rác Mỹ là nguồn sống của hơn 50% dân của thành phố nơi tôi ở. Dĩ nhiên hầu hết đều bỏ quê hoặc chạy chiến tranh hoặc bị Mỹ lùa đi khỏI vùng đồng ruộng…

Suốt cả thời kỳ chiến tranh chưa có một thành phố nào ở miền Trung này làm ra một sản phẩm gì cho xã hội, ngay cả bàn ghế, nhà cửa của 80% dân nghèo đều làm từ vật liệu phục vụ chiến tranh thừa ra. Ván ép Mỹ, gỗ Mỹ, la phông Mỹ, tôn Mỹ, bàn ghế cũng từ đó mà ra…tất cả được đưa từ các nước khác đến. Chỉ có một số từ cấp xã trưởng trở lên, rồi sĩ quan, dân biểu, những người làm quản lý người Việt cho sở Mỹ, người buôn đồ Mỹ, một số thầu khoán…là đủ sức làm cái nhà xây, nhà lầu. Mẹ tôi bán 4 sào ruộng hương hoả được 2,5 lượng vàng năm 1969 để làm cái khai sinh ít hơn đến 8 tuối cho tôi khỏi đi lính. Vì vậy lớn tồng ngồng 17 tuổI đầu mà tôi mới học đệ thất (lớp 6).

Năm 1975, Huế bị chiếm, Đà Nẵng rúng động vì dân tản cư ra 2 tuần sau rộn ràng quanh tôi nhiều gia đình lính, cảnh sát âm thầm đi vào Sài Gòn. Trước 2 ngày CS chiếm Đà Nẵng tôi cũng lật đật theo mấy thằng bạn là sinh viên ĐH Quảng Đà và một vị linh mục rủ xuống tàu đi qua Mỹ. May mà cha tôi tìm ra ngay được bên bờ sông Hàn kéo tôi lại chứ không hôm nay tôi có thể cũng là một Việt kiều di tản. Tôi thì không sợ gì Việt cộng trả thù, dù gì tôi cũng biết bác tôi là Việt cộng rồi; nhưng lúc bấy giờ tôi cũng thích qua Mỹ vì tôi từng biết nước Mỹ không phải chỉ có những lính Mỹ hung tợn ở VN, mà đó là một nước có nhiều danh nhân, nhiều điều lạ mà tôi thích. Đa số gia đình sĩ quan, làm chức to trong chính quyền SG bấy giờ họ đều sợ CS thủ tiêu sau khi chiếm thành phố, nên họ chạy trốn.

Khá bất ngờ là sau khi CS chiếm thành phố chẳng có ai bị thủ tiêu cả. Gần một năm sau chính quyền bắt đầu đưa các sĩ quan cấp tá, cấp uý làm CIA, cán bộ Phượng Hoàng, cấp uý cảnh sát đi cảI tạo. Hầu hết các sĩ quan cấp uý các binh chủng chiến đấu khác chỉ đi học chính trị non 1 tháng thì về nguyên quán, vì họ phần lớn đều xuất thân từ nông thôn . Sự dị biệt chủ yếu là họ không được làm cán bộ thời đoạn này. Khoảng những năm 80 có 1 số sĩ quan này tham gia làm cán bộ hợp tác xã vì lý do duy nhất là họ có trình độ văn hoá khá nhất so với dân chúng trong vùng. Có lẽ mọI chuyện sẽ lãng quên, hoà nhập dần nếu nước Mỹ không đề ra chính sách khuyến khích người di tản. Vẽ lên một thiên đường sau khi rời khỏi lãnh thổ Việt Nam để đến bất kỳ 1 nước thứ 3 nào. Sự đồn đãi rỉ tai làm hàng vạn dân nghèo, nhất là dân vạn đò, chài lưới vừa chở người trên bờ đi ra biển và chính mình cũng đi luôn. Tiếp đó là chính sách Con lai, rồi HO. Gần 10 năm quên lãng, những sĩ quan , viên chức VNCH bỗng chốc trở lại cái tư tưởng ngồi không ăn bổng lộc cũ của Mỹ. Họ phân hoá và ngầm chống đối lại chính quyền đương thời. Tất cả rộn ràng chờ đi Mỹ… Khách quan mà nói giai đoạn 77-84 là giai đoạn VN thiếu thốn cùng cực, ai nấy đều ăn bobo, sắn lát…Sự thiếu đói là động lực chủ yếu làm ngườI dân nghèo, lính, sĩ quan VNCH bỏ nước ra đi. Ra đi và họ cũng bỏ lại sau lưng hàng triệu người trong nước cũng thiếu đói như họ cố gắng, cố gắng không ngừng để có được như ngày hôm nay. Quả tình công lao xây dựng một nước VN có vị trí quốc tế, phát triển như hiện nay quả rất ít bàn tay của những người ra đi như vậy.

Có một điều mà nhiều người di tản đã làm là gởi tiền về giúp ngườI ruột thịt của mình , Tôi ước khoảng 40% số tiền Việt kiều ở Mỹ gởI về các địa phương miền Trung VN là để xây lăng mộ. Từ Quảng Trị, Quảng Bình, TT-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam…đâu đâu cũng thấy những "thành phố lăng mộ" Việt kiều, có mộ xây hàng tỉ đồng VN. Có lẽ làm như vậy mới thoả được tâm nguyện, ông bà cũng phù hộ cho họ ở xứ người. GiảI thích lịch sử như thế nào đây dưới cái nhìn của một người tạm gọI là trí thức cũng xuất thân từ vùng quê nông nghiệp như tôi. Rõ ràng rất khác con em của một vài điền chủ, trang trại , sĩ quan cao cấp thời Thực dân Pháp. Bởi chắc chắn vớI họ là ngườI Pháp tốt vì đã làm được tuyến đường sắt Bắc-Nam thuận lợi cho việc buôn bán của gia đình ông cha họ trước đây. Cũng tương tự như vậy đối với những sĩ quan , viên chức cao cấp khác đến Mỹ…. không phải lao động quản lý , chiến đấu gì cũng được hưởng lương. Dù sao họ cũng là con số rất nhỏ so với hàng triệu ngườI nghèo là sĩ quan cấp thấp, dân nghèo di tản phải vật lộn suốt 20 năm qua để tồn tạI trên dất Mỹ cho đến tận hôm nay. Mỗi thành phần sẽ truyền đạt lại cho con cháu quan niệm yêu ghét lịch sử một cách khác nhau.

Một thính giả
Thính giả Trung ở Hoa Kỳ góp ý rằng ông Hồ Chí Minh không có chọn lựa nào khác ở vào thời điểm 45-46. Tôi nghĩ ngược lại, có nhiều lựa chọn chính trị và chiến lược. Đọc các sách sử, chúng ta thấy rõ thất bại thương thuyết Pháp-Việt tại hội nghị Đà Lạt, rồi hội nghị Fontainebleau nằm trong đòi hỏi Pháp phải công nhận Việt Nam độc lập - thống nhất Nam Trung Bắc- trong liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Thật sự ông Hồ Chí Minh đã muốn tránh chiến tranh, (tổng ủy viên Jean Sainteny, sử gia Philippe Devilliers, và tướng Pierre Boyer de Latour tư lệnh Bắc Phần đánh giá Hồ Chí Minh thuộc thành phần chủ hoà trong mặt trận Việt Minh, ngược lại Võ Nguyên Giáp bị đánh giá thuộc khuynh hướng diều hâu chủ chiến) ; tuy nhiên Pháp chỉ thuận cho Việt Nam làm một quốc gia Tự Do (Libre) và Tự Trị (Autonome) bao gộp Trung và Bắc Kỳ. Dựa trên hoà ước Patenôtre ký với triều đình Huế công nhận chủ quyền vĩnh viễn của Pháp ở Nam Kỳ, chính phủ Pháp từ chối trao trả Cochinchine và thành lập nền Cộng Hoà Nam Kỳ Tự Trị.

Chính đây là giọt nước làm tràn ly. Hồ Chí Minh khi ấy chấp nhận bỏ hai chữ độc lập, nhưng không chấp nhận tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. Sau đó là chiến tranh. Với thời gian, dân tộc VN bây giờ có quyền đặt câu hỏi: Có nên chấp nhận quốc gia VN Tự Do và Tự Trị trong Liên hiệp Pháp với Trung và Bắc Kỳ không thôi hay không ? Thay vì một cuộc chiến thảm khốc để rồi cuối cùng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà biên giới chỉ đến Đồng Hới, mà VN phân ly, nội chiến tương tàn ? Và vì sao kháng chiến giành độc lập mà Việt Minh đánh mất độc lập chính trị vào tay Trung Quốc khi phải vâng phục Chu Ân Lai chấp nhận chia đôi ở vĩ tuyến 17?

Trong Ký sự lịch sử Trận Đánh 30 năm, nxb QĐND 1985, trung tướng Trần Độ và đại tướng Hoàng Văn Thái viết rất rõ về thái độ trở mặt và thoả hiệp của phái đoàn Trung Quốc tại hội nghị Genève 1954. Trong hội nghị này, Chu Ân Lai chính thức công nhận chính phủ Việt Nam Công Hoà. Quyển ký sự này in trong bối cảnh chiến tranh Hoa Việt 1979 cho thấy nhiều mặt trái của Bắc Kinh, cũng như chủ quyền chính trị thực sự của chính phủ Kháng Chiến bị Trung Quốc giới hạn. Đó là chưa kể việc VN phải cắt lãnh thổ và lãnh hải trả nợ cho Trung Quốc sau chiến tranh.

Như vậy, Độc lập từng bước, trên từng miền để tránh chiến tranh, tránh lệ thuộc, đã có thể là một chọn lựa chiến lược tốt đẹp hơn mà ông Hồ Chí Minh bỏ qua. Với thời gian, với trào lưu giải thực trên toàn thế giới, với chuyển giao hành chánh từng phần Pháp-Việt, cùng với sự suy kiệt của Pháp sau thế chiến, dân tộc VN sẽ đạt đến một nền độc lập toàn diện, tuy chậm, có thể phải thêm một thập niên mà không đổ máu.

Quan trọng hơn hết là tránh được nội chiến và không trở thành chư hầu của các đế quốc vì nhận súng đạn của họ để đánh nhau. Ở thời điểm 45-46, ông Hồ Chí Minh và tổng bộ Việt Minh đã thiếu viễn kiến, hoặc đã không nhìn thấy nguy cơ nội chiến về sau, vì ngay từ 1950, 62% quân số của các tiểu đoàn Lê Dương và Nhảy Dù Tây là lính VN ; hoặc ông Hồ Chí Minh đã nhìn thấy chiến tranh là cứu cánh duy nhất giúp Việt Minh tiếp tục giữ vai trò tác nhân trung tâm. Nhìn chung, sau 9 năm chiến tranh, hiệp định Genève là một thất bại của Hồ Chí Minh, vì quyền lợi của nước VN Dân Chủ Cộng Hoà trong hiệp định này còn thua cả Hiệp Ước Sơ Bộ ký ngày 6 tháng 3-1946.

Ở các quốc gia Tây Phương, các công dân thường xuyên nhìn lại lịch sử và đánh giá các sai lầm của các chính phủ, mà luật pháp bắt buộc công bố tài liệu mật sau phân loại và lưu trữ 15, 25, hay 50 năm. Tại VN, quê hương của chiến tranh, nhưng dân tộc Việt lại không được quyền tìm hiểu sự thật chiến tranh đã diễn ra, mà vẫn phải cam phận với văn khố Việt Minh sau nửa thế kỷ vẫn trong tình trạng niêm phong vĩnh viễn. « Đề nghị ban hành quy định đối tượng được viết hồi ký, thời điểm viết và những nội dung được viết » nói lên mặt trái của cuộc chiến giành độc lập tự do của dân tộc này.

Hoàng Thi
Nếu nói như ông Phong thì tôi thấy có một sự mâu thuẫn lớn trong lý luận chính trị của Đảng ta có khẳng định rằng “Đảng là đỉnh cao của trí tuệ” khi ông đưa ra hai nhân vật chính trong Đảng “

1) Một người đàn bà mà ông không nêu tên có công lớn trong việc cứu đói cho dân và dẫn đến công cuộc “đổi mới” nền kinh tế của VN (xây)

2) một người khác nữa đó là ông Đỗ Mười có công trong cuộc cải tạo công thương nghiệp đã xóa sạch tất cả những ước vọng đó (tịch thu toàn bộ tài sản, đất đai, nhà cửa của người dân Miền Nam, tập trung vào tay nhà nước quản lý (phá)”.

Thế thì tại sao Đảng ta không đưa người đàn bà có công (tài giỏi) kia lên làm TBT đảng để người dân VN được nhờ, mà lại đưa ông Đỗ Mười một người có công làm cho nền kinh tế nước nhà “tán gia bại sản” lên làm TBT đảng trong thời kỳ đổi mới?, Đảng ta lãnh đạo sáng suốt ở chỗ nào?

Minh Duc, Montreal, Canada
Tác giả viết: "Tôi nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó còn gửi thư cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ xin gửi để học kinh nghiệm của Mỹ để xây dựng đất nước Việt Nam." Giả sử người Mỹ bằng lòng giúp chính phủ Hồ Chí Minh lúc đó thì ông Hồ có sẽ đi theo con đường kinh tế thị trường hay không hay là vẫn đi theo khuôn mẫu kinh tế của Liên Xô?

Giả sử Mỹ giúp VN lúc đó thì ông Hồ có còn theo chủ thuyết Mác-Lê hay không hay là từ bỏ chủ thuyết Mác-Lê? Nếu ông Hồ áp dụng kinh nghiệm xây dựng đất nước theo kiểu Mỹ thì có nghĩa là đi theo kinh tế thị trường, áp dụng chế độ dân chủ đa đảng. Đi theo kinh tế thị trường thì trái với chủ thuyết Mác-Lê, vốn chủ trương tiêu diệt tư hữu, tiêu diệt kinh tế thị trường. Áp dụng chế độ dân chủ đa đảng thì trái với nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng CS mà ông Hồ đã học được từ lúc ở Nga.

Nếu viết thư để xin học tập kinh nghiệm xây dựng đất nước của Mỹ mà lại cũng vẫn không chấp nhận theo kinh tế trị trường, không chấp nhận dân chủ đa đảng, vẫn cứ kiên trì chủ nghĩa Mác-Lê thì sẽ chẳng học được gì của Mỹ cả vì đường lối phát triển đất nước của Mỹ hoàn toàn trái với phương hướng mà chủ nghĩa Mác-Lê vạch ra. Nói tóm lại, ông Hồ và đảng CSVN có sẵn sàng từ bỏ chủ nghĩa Mác Lê vào những năm 1940 nếu Mỹ bằng lòng giúp hay không. Nếu nhận sự trợ giúp của Mỹ rồi sau khi đánh đuổi được Pháp lại vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác-Lê thì chẳng học được gì về kinh nghiệm xây dựng đất nước của Mỹ cả mà Mỹ không giúp cho cũng là phải vì Mỹ là nước tư bản thì có lẽ nào lại đi giúp một nước đi theo chủ nghĩa Mác-Lê lớn mạnh để rồi theo phe XHCN mà tiêu diệt tư bản.

Một thính giả
Thính giả Quỳnh đặt câu hỏi : Phải làm gì …vì một nước Việt an bình, một dân tộc hạnh phúc, một xã hội ấm no.

Cách đây một thế kỷ, năm 1897 toàn quyền Paul Doumer sang Đông Dương xây cầu Doumer tức cầu Long Biên, xây nhà hát lớn Opéra de Garnier ở Hà Nội, Sàigòn, thiết lập đường xe lửa xuyên Việt, xây một loạt đê điều cầu cống và viết hồi ký L’Indochine Française xuất bản năm 1930 (nxb Librairie Vuibert).

Doumer hãnh diện tuyên bố: "Hà Nội và Sàigòn là hai thành phố có điện đầu tiên ở Viễn Đông, có xe điện sau Tokyo và 1700 kms đường hỏa xa trong lúc Xiêm La (Thái Lan) chỉ mới có 700 kms đường xe lửa và thủ đô Bangkok chưa có điện. Tất cả nhờ vào khả năng cai quản của chính phủ bảo hộ."

Paul Doumer mà về sau trở thành tổng thống dưới nền đệ III Cộng Hoà Pháp giải thích nguyên nhân thành công của Pháp: Một chính sách thuế khoá khoa học. Kể từ triều Thành Thái, Viện Cơ Mật bị hội đồng thuộc địa thay thế ở Nam Kỳ, hội đồng Bảo Hộ thay thế ở Trung Bắc Kỳ, các quan lại triều đình Huế lãnh lương tháng của chính phủ Bảo Hộ, ngay cả vua Thành Thái cũng thành công chức lãnh lương làm thiên tử.

Doumer phê phán chính sách thuế khoá của triều đình Huế hãy còn giống như ở thế kỷ 17: Các tổng đốc, khâm sai, án sát thâu thuế tính trên đấu gạo rồi khấu trừ tất cả chi phí công lẫn tư, trước khi gửi về kinh thành. Do vậy, ngân sách của vương quốc Đại Nam không nhiều, phần lớn rơi vào túi của các quan.

Thành công chính của Doumer là đã đem vào Việt Nam một phương thức kinh tế mới mẻ mà triều đình Huế hoàn toàn chưa biết đến: Cách huy động vốn tư bản bằng cách vay mượn 200 triệu piastres (đồng bạc Đông Dương) ở các ngân hàng Âu Châu xuyên qua ngân hàng Đông Dương. Chính số vốn Tư Bản này đã giúp Doumer xây cảng Hải Phòng, Cam Ranh, Nha Trang, Đà Nẳng, hiện đại hoá cách khai thác mỏ than Hòn Gai, làm đường xe lửa xuyên Việt, v.v.. và dân tộc VN đóng thuế cho Tây trả nợ trong nhiều năm.

Đầu tập hồi ký, toàn quyền Doumer đã viết một câu bỉ thử: "Sự suy vi của An Nam có thể trông thấy, từ giữa thế kỷ 19 khi chúng ta đặt chân đến đây, dân tộc này đã sẵn sàng làm nô dịch (servitude), nếu không phải chúng ta, thì sẽ nô dịch cho một đế quốc khác".

Trước Paul Doumer, toàn quyền Jean Louis de Lanessan, trong nghiên cứu Indochine Française xuất bản năm 1889 (nxb Félix Alcan) thì ghi nhận chính sách thi cử rất gắt gao của trường thi Nam Định rập khuôn thi cử ở Trung Hoa dưới triều Mãn Thanh, nghĩa là tập trung vào bình giảng các án văn cổ thư Trung Hoa, hiếm khi bình luận thời cuộc hay lịch sử, mà nếu luận bàn, các nho sĩ An Nam chỉ luận bàn duy nhất lịch sử Xuân Thu Chiến Quốc.

De Lanessan nhận xét giáo dục học vấn An Nam không thay đổi từ thế kỷ thứ 7; người An Nam lầm lẫn cách hành văn (văn hay chữ tốt) với kiến thức thực sự và ngoài Trung Hoa, họ không nhìn thấy thế giới. Như vậy, ngay khi sang Đông Dương, các toàn quyền Tây đã thấy ngay nguyên nhân suy vi của Đại Nam.

Có một chi tiết mâu thuẫn trong sách của Lanessan và Doumer, cả hai toàn quyền này đều công nhận An Nam là một đế quốc hùng mạnh nhất ở bán đảo Trung Ấn, được Ai Lao và Cao Mên thần phục ngay từ 1801. Và dân tộc An Nam, như Doumer đánh giá: Phải đến Nhật Bản mới tìm thấy một chủng tộc thông minh, thiện chiến và tháo vát hiệu quả tương đương.

Như vậy, sự suy thoái của đất nước VN, của dân tộc VN, bắt nguồn trước nhất ở giai cấp cầm quyền.

Tình cảnh VN từ 1840 giống tình cảnh của Đại Hàn. Cả hai vương quốc Đại Nam và Cao Ly đều lệ thuộc Trung Hoa, đều phải triều cống Thanh Triều, rồi cả hai vương quốc này đều cầu viện Trung Hoa bảo vệ nền độc lập và cùng đánh mất độc lập vào tay Pháp và Nhật Bản.

Rồi khi Trung Hoa thành Cộng Sản, cả hai vương quốc này đều rơi vào nội chiến Quốc- Cộng và bị phân ly Nam-Bắc.

Bên cạnh Nhật Bản chỉ mất 25 năm để đi từ chế độ Mặc Phủ Sứ Quân sang chế độ Quân Chủ Tuyệt Đối rồi Quân Chủ Lập Hiến. Chỉ sau 25 năm, từ một nước nông nghiệp thủ công, Nhật Bản đã đủ sức đánh chìm hạm đội Bắc Hải của Nga Hoàng ở Đối Mã. Thành công của Nhật Bản trước hết là thành công của thay đổi thể chế chính trị, từ phong kiến sang chế độ đại nghị, tam quyền phân lập.

Để trả lời câu hỏi : « Phải làm gì …vì một nước Việt an bình, một dân tộc hạnh phúc, một xã hội ấm no. » Thay vì « quên đi quá khứ để hướng đến tương lai », có lẽ tuổi trẻ VN nên bắt đầu bằng tìm hiểu trở lại quá khứ, một cách kỹ càng, ở nhiều nguồn khác biệt, không duy nhất version chính sử của Hồng Quân Sô Viết hay Hồng Quân Trung Quốc hoặc Quân Đội Nhân Dân, quá khứ có minh bạch thì tương lai mới minh bạch.

Đã đến lúc dân tộc Việt Nam cần đối mặt với quá khứ và không chấp nhận tuyên truyền. Các biện pháp ngăn cấm tự do báo chí và độc quyền lịch sử của triều đình An Nam hôm nay đều gây trở ngại cho công cuộc canh tân của đất nước. Nếu “Đổi Mới” đồng nghĩa “Mở Cửa”, thì “Mở Cửa” trước tiên phải là mở cửa thông tin. Chính sách Bế môn toả cảng tri thức dân tộc của vua Tự Đức đã thất bại.

Trân, Hà Nội
Đúng là lương tâm quan trọng nhưng tư duy của con người cũng thay đổi, cũng đi lên theo thời gian. Xã hội hiện đại với nhiều mối quan tâm hơn thì vấn đề lương tâm không thể giống thời chống Pháp được.

Trong xã hội hiện đại, luật pháp phải là điều tiên quyết, chính luật pháp nghiêm minh sẽ khơi dậy lương tâm ở mỗi con người. Tuyên truyền chỉ có một hiệu quả rất nhỏ mà thôi.

Quỳnh, Hoa Kỳ
Hay quá, GS Phong nói rất hay, được một chiều. Bác Một Thính Giả nói cũng hay quá, được chiều ngược lại. Thực tế bây giờ, chúng cháu, người ở ngoài thì lương tâm lẫn lộn ; người ở trong thì lương tâm mục nát. Kẻ tham lam thì đang bao vây, chầu chực. Kẻ cửa quyền thì mù mù, điếc điếc. Người thông thái thì câm câm, tê liệt.

Nếu bắt đầu lại từ bây giờ khi đã nhìn thấy rõ được mọi sự cần thiết phải làm, đó là lương tâm người Việt Nam, thì chúng cháu phải làm gì bây giờ hả các Bác yêu quí. Chấp nhận qúa khứ, xin các Bác hãy vì lương tâm mà ngay bây giờ mở lòng với chúng cháu thế hệ Việt mới 8x,9x,10x....trên toàn thế giới. Xin các Bác hãy cùng ngồi lại với nhau, để chúng cháu nối tiếp những hành động cao đẹp của các Bác vì một nước Việt an bình, một dân tộc hạnh phúc, một xã hội ấm no.

Trung, Hoa Kỳ
Xin góp ý với bạn một thính giả rằng vì sao HCM không thể từ bỏ CS để có thể thương thuyết thuận lợi hơn trước Pháp (kẻ bại trận) hay Mỹ (siêu cường tham vọng đương thời) ngay sau CM tháng 8 hay 1954 rất đơn giản là vì HCM không thể ngay lập tức trở mặt phản bội lại những con người đã làm nên cuộc cách mạng hay đã hy sinh để bảo vệ thành quả của cuộc cánh mạng! HCM không có lựa chọn nào khác trong hoàn cảnh này.

Và giả sử nếu ông còn sống chắc chắn ông cũng là người đầu tiên phát động phong trào "Đổi Mới" ngay sau khi mục tiêu thống nhất nước nhà trở thành hiện thực!

Dù sao đi chăng nữa HCM và những người đồng chí học trò đầu tiên của ông như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Lê Hồng Phong... đều không xuất thân từ giai cấp nông dân, công nhân. Và chắc chắn những trí thức như họ sẽ có cách hành xử nhẫn nhịn và mềm mỏng không khéo khác hơn nhiều so với Lê Duẩn.

Trương
Ông Phong có lẽ quên rằng thời kháng Pháp, tư tưởng Mác Xít mà ông Hồ mang về VN chưa ăn xâu vào con người VN, nên mới còn có cái lương tâm từ con người dám lắp lỗ châu mai mai, mang mìn nhảy vào xe tăng địch.

Cái lương tâm ấy bị đánh mất từ chiến khu (hãy xem nhật ký của Thùy Trâm) hay từ hậu phương lớn miền Bắc, nơi mà người có chức cao dám mang cha mẹ ra đấu tố. Và kẻ có quyền cao nhất lúc bấy giờ, ngay cả khi biết bị hớ, đã không dám nhận tội mà đổ lỗi cho hạ cấp làm sai. Mãi đến bây giờ vẫn chưa có ai, trong VN, dám phân tích trách nhiệm và vai trò của ông Hồ Chí Minh trong chiến dịch đấu đố địa chủ ở miền Bắc.

Và ngày nào, người ta còn lăng xê một tấm gương lệch lạc như vậy làm khuôn vàng thước ngọc cho các thế hệ đi sau thì dân tộc VN nghìn đời vẫn lạc hậu. Bằng chứng là những cơ hội vàng đến và đi "không" xuyên qua VN.

Những đổi mới ở VN trong hai thập niên qua chỉ ở mức độ "quá giang" là "đi ké xe cứu thương" nhưng không bao giờ thực sự là "KAIZEN" (cải thiện liên tục để tốt đẹp), vì thế dân VN chỉ khá hơn dân Bắc Hàn ở chỗ không bị đói mà thôi! Sự phát biểu của ông Phong ở đây chỉ mang tính chất cá nhân và vẫn còn nhiều thiên vị (có thể vì ông hiện còn đang ở VN, nơi mà báo chí thông tin hoàn toàn do ĐCS chi phối), chứ chưa đủ chất lượng của một sử gia. Dù vậy tôi vẫn học đuợc nhiều điều thú vị từ ông. Xin cảm ơn ông.

Một thính giả
Bài phỏng vấn giáo sư Đặng Phong rất hay. Tôi đồng ý với phân tích các cơ hội vàng đã đánh mất. Theo tôi, cơ hội vàng lớn nhất, là sau 30-04-75 khi hoà bình lập lại, đảng Cộng Sản đã đánh mất khi thiết lập một chế độ chiếm đóng trong Nam, với chính sách kỳ thị Nam-Bắc, kỳ thị con em Ngụy, ưu tiên con em Cách Mạng, chiếm đoạt tài sản, nhà cửa Ngụy cho gia đình Cánh Mạng, xua đuổi người Hoa và gia đình Ngụy ra biển bằng cách tổ chức thu vàng cho đi bán chánh thức… thay vì thực thi một chính sách xoá bỏ hận thù, công bằng, bác ái thực sự.

Một nửa tiềm năng của đất nước đã phải vượt biên tìm sống. Tôi muốn thêm là chính sự chọn lựa chủ nghĩa Cộng Sản của Hồ Chính Minh đã phá hủy khá nhiều cơ hội của VN. Cả De Gaulle và Trumann đều không muốn đối thoại với Hồ Chí Minh vì chọn lựa Cộng Sản này, mà Pháp và Mỹ đều nghi ngại .

Và không chỉ một mình Hồ Chí Minh viết thư cho Pháp và Hoa Kỳ, người đầu tiên tuyên bố Việt Nam Độc Lập chính là hoàng đế Bảo Đại ngày 25-8-1945, (trước tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9). Và cũng chính hoàng đế Bảo Đại trong « Message de Mr Vinh Thuy, ex-empereur d’ANNAM, à la France » ( in lại trong Histoire d’une Paix Manquée của nguyên Tổng ủy viên xứ Bắc Kỳ Jean Sainteny), đã yêu cầu tướng De Gaulle hãy chấp nhận Việt Nam độc lập trong liên hiệp Pháp với mọi ưu tiên hợp tác kinh tế, văn hóa giành cho nước Pháp, và Bảo Đại cảnh cáo mọi tham vọng tái lập chính quyền thuộc địa tại Đông Dương sẽ đưa đến chiến tranh. …

Năm 48, chính quyền Pháp trao trả độc lập chánh thức cho Bảo Đại, thành lập quân đội quốc gia và chính quyền quốc gia. Đến đây, cơ hội đình chi! n và thương thuyết hợp tác, tái thành lập một chính phủ liên hiệp, một lần nữa đánh mất.

Giáo sư Đặng Phong trả lời BBC: « Tôi nghĩ rằng con đường của nước Việt Nam sẽ là từng bước tiệm tiến đi trong ổn định nhưng chậm không đạt được tốc độ như nhiều người mong muốn. Vì chúng ta không thể ép cái hệ thống lãnh đạo Việt Nam hiện nay phải làm như chúng ta mong muốn. Vả chăng họ cũng có những lý do của họ và không những họ có lý do mà họ còn có quyền lực. Họ quyết định đi ở mức độ ấy » làm tôi nghĩ đến Nguyễn Trường Tộ dâng sớ canh tân, vua Tự Đức từ chối và triều đình Huế có những lý do để canh tân từ từ đi theo mức độ của họ, cuối cùng hậu quả là chế độ Bảo Hộ.

Hôm nay VN đang đứng trước nguy cơ bảo hộ chính trị, kinh tế, quân sự của Trung Hoa và Hoa Kỳ, mà chắc chắn hai đế quốc này không đợi VN canh tân từ từ trở nên hùng mạnh để nói không với họ.

Cuối cùng giáo sư Đặng Phong nói đến lương tâm đang đánh mất trên xứ Việt ..? Vì sao đánh mất? Ai đánh mất ? Vậy « Đạo đức Cách Mạng, Con người Mới, xã hội Mới, làm chủ tập thể » ở đâu?

Vì chế độ Cộng Sản tham nhũng đã xây dựng trên khẩu hiệu giả dối, để cuối cùng dân chúng nhận ra chính đảng viên đánh mất lương tâm trước nhất, chính đảng viên lo làm giàu trước nhất, vì vậy, chụp giựt và thủ thân trở thành triết lý sống.

Còn lương tâm? Sau khi triệt hạ đạo lý Thánh Hiền, xui con cái tố cha mẹ trong cải cách ruộng đất, triệt văn hoá tiểu tư sản, đảng Cộng Sản đã thay bằng chủ nghĩa Mác Lênin, nhưng chủ nghĩa Mác Lê không phải là văn hoá cũng không phải đạo lý... chính đây là lỗ thủng trong các xã hội Cộng Sản trống vắng lương tâm.

Giáo sư Đặng Phong làm tôi nghĩ đến sự bất lực của Chu Văn An và Nguyễn Trường Tộ. Không thể dâng sớ xin chém đầu nịnh thần khi triều đình do nịnh thần nắm giữ. Không thể canh tân đất nước mà không cải tổ chính trị. Triều đình Huế đã canh tân từ từ ở đầu thế kỷ 19… và không thay đổi thể chế chính trị cho đến khi Viện Cơ Mật bị thay thế bằng Hội Đồng Bảo Hộ.

Một thính giả
Tôi đồng ý với ông Phong là vấn đề lương tâm là vấn đề quyết định vì mọi hình thức đều có chỗ thiếu sót. Ta nên tỏ ra hiểu biết! Các bạn nghĩ sao?