|
Các gia đình trí thức yêu nước ở Hà Nội
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Cuốn sách gần đây của tôi là kết quả nghiên cứu thực hiện sau nhiều chuyến thăm thú vị đến Hà Nội và các vùng lân cận trong
bảy năm qua.
Tâm điểm của nó là những thành tựu văn hóa giáo dục phi thường của Việt Nam thời hiện đại, nhấn mạnh đến khía cạnh con người mang tính cá nhân của những thành tựu đó. Mối quan tâm của tác phẩm không phải là các hoạch định chính sách hay thống kê khô khan, mà là cảm giác, suy tư và trải nghiệm của người đang sống. Trên hết, tác phẩm trình bày những cách thức con người truyền lại những ký ức mà họ muốn chia sẻ với gia đình và bè bạn, đặc biệt là những kỷ niệm về thay đổi và biến động lớn của Việt Nam suốt 50 năm qua. Gia đình trí thức Những con người được đề cập trong nghiên cứu của tôi là những gia đình trí thức hiện đại của Hà Nội. Tôi phát hiện đây là những gia đình có truyền thống học nhiều ngôn ngữ, đạt nhiều bằng cấp với tư cách là những chuyên gia truyền đạt kiến thức vì lợi ích của đất nước và gia đình. Thỉnh thoảng trong những buổi họp mặt mà tôi có dịp tham dự ở nhà và nơi làm việc của họ, có những người biết tới năm, sáu ngôn ngữ mà họ đã học trong nhiều giai đoạn. Tất cả thanh niên đều biết tiếng Anh, và nhiều người lớn tuổi có thể giao tiếp bằng tiếng Nga, Ba Lan, Romania, Đức hoặc tiếng Hoa. Điều thích thú mà tôi thường nghe trong các chuyến thăm là cả trước và sau Đổi mới, nhiều người trong các gia đình này đã cống hiến cho nhu cầu phát triển của các nước như Algeria, Madagascar và Mozambique. Họ làm việc tại đó theo các chương trình nhà nước như bác sĩ, giáo viên và chuyên gia trong những năm sau Thống nhất 1976. Đây là một diễn tiến quan trọng mở đường cho việc xuất khẩu lao động và hàng hóa của Việt Nam ngày nay đến nhiều nước châu Phi. Tôi cũng phát hiện một phần quan trọng trong đời sống của các gia đình trí thức là truyền lại ký ức về những thành tựu này cho con cháu, mặc dù đôi khi người trẻ khó mà hiểu được những năm tháng rất khác mà cha mẹ và nhiều người lớn tuổi đã trải qua, cùng những hy sinh trong hai cuộc kháng chiến, những năm phục vụ ở nước ngoài trong giai đoạn kinh tế bao cấp. Phụ nữ tận tụy Một phần quan trọng trong cuốn sách nói về thành tựu của những phụ nữ có học của Hà Nội.
Đa số họ có mẹ hoặc bà là những người đầu tiên của gia đình được hưởng nền học vấn hiện đại. Một số đã về hưu sau thời gian phục vụ trong quân đội, đặc biệt là ngành quân y; nhiều người đã học để trở thành nhà khoa học, kỹ sư, giáo viên ở Ba Lan, Romania và Liên Xô trước khi ra nước ngoài lần nữa để làm chuyên gia, làm việc trong môi trường có khi cô đơn và thử thách. Nhưng ngay cả khi xa nhà, tất cả đều nói họ tìm ra cách để duy trì quan hệ nồng ấm với gia đình ở Hà Nội. Họ trao đổi thư từ, ảnh của gia đình, và dùng ngân sách eo hẹp để gửi những món đồ mà vào thời trước Đổi mới còn quý hiếm về nhà. Tôi thường được nghe rằng chính nhờ sự kiên cường của những phụ nữ mạnh mẽ và tận tụy này mà gia đình họ có thể bươn chải để vượt qua nhiều thử thách trong giai đoạn chiến tranh và những biến động gần đây. Vì thế, khi tôi trông thấy những vật như những bức ảnh từ thập niên 1980 chụp nhiều em bé Hà Nội ôm búp bê Nga, mặc áo khoác mùa đông của Đức, tôi nhận ra mình đang trông thấy những bảo vật gợi lại ký ức mạnh mẽ về đời sống XHCN quốc tế của 30, 40 năm trước. Đồng thời, tôi nhận ra mình đang trông thấy bằng chứng về tình thương yêu mà người ta còn nhớ về những năm chia ly và khó khăn, như tôi đã thấy những phẩm chất ấy còn lồ lộ trong đời sống gia đình Hà Nội hôm nay. Dũng cảm trong chiến tranh Ngày nay các nhà nhân học thường nói công tác thực địa có nghĩa là “làm việc với” con người chứ không phải “nghiên cứu” họ. Tức là, với sự hợp tác và đồng ý của họ, chúng tôi quan sát và tham dự vào nhiều mặt đời sống mà họ cho phép chúng tôi được thấy và chia sẻ. Mục đích của chúng tôi là nắm bắt hành vi và giá trị của các gia đình và cộng đồng giữa thế giới, và cố gắng viết thật đúng và có trách nhiệm về những gì mình nghe, mình thấy. Khi cố gắng là một người nghe ân cần và nhạy cảm, tôi đã học nhiều điều thú vị về công tác và đời sống trong nhà của các gia đình trí thức Hà Nội trong cả hai cuộc kháng chiến, ví dụ như công tác tình nguyện xóa mù chữ ở các làng sơ tán khi họ còn là học sinh. Tôi cũng được nghe rằng thường thì các bà mẹ trẻ đảm đương trọng trách nguy hiểm là giúp gia đình họ có thể an toàn rời Hà Nội bị tạm chiếm đến các liên khu của Việt Minh trong giai đoạn đầu của cuộc chiến 1946-54. Bằng cách dùng thứ tiếng Pháp họ học khi Hà Nội còn chưa độc lập, những phụ nữ này, đi cùng con cái, đã vượt qua những chốt gác của lính đối phương. Họ khôn khéo che dấu mình là người ủng hộ kháng chiến đang trên đường đoàn tụ với chồng và người thân ở các liên khu. Tôi cũng được cho biết những nỗ lực tuyệt vời trong thời chiến nhằm duy trì đời sống văn hóa sinh động cho Việt Nam. Tôi nghe những câu chuyện hấp dẫn từ những người mà khi còn là trẻ em của thập niên 1950, đã phải chịu các cuộc bỏ bom và nhiều nguy nan khác trên đường đi tới Quế Lâm, miền nam Trung Quốc. Họ đi theo những nhóm nhỏ, đi bộ nhiều tuần lễ trong thời tiết mùa đông giá lạnh để đến những trường học do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dựng lên cho con cán bộ và những người yêu nước. Những người trẻ tuổi nói họ thấy thật phi thường khi người lớn kể rằng nhiều học sinh Quế Lâm quyết định trở thành giáo viên để phục vụ nhu cầu văn hóa giáo dục của đất nước trong tương lai. Nhiều người Hà Nội mà tôi làm việc cùng đã kể lại những kỷ niệm sâu sắc khi họ là những cán bộ văn hóa Việt Minh sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Tôi rất quan tâm những cố gắng của một số người khi họ bảo vệ những tài nguyên văn hóa như thư viện nhỏ trong làng, các phòng đọc sách để chúng không bị quân Pháp làm hư hại hay cướp phá trong lúc rút chạy. Người Hà Nội cũng kể nhiều về những giáo viên tận tụy nuôi dưỡng tài năng trẻ tại Trường Mỹ thuật Việt Bắc. Một điểm son trong nghiên cứu của tôi là khi gặp bà Vũ Giáng Hương, đã bước sang tuổi 70. Thật vinh dự khi bà Hương, từng là họa sĩ chiến trường, cho phép tôi dùng một bức tự họa rất đẹp của bà, vẽ năm 1998, làm trang bìa cho cuốn sách. Lưu giữ di sản Tôi xem tác phẩm quan trọng này là lựa chọn lý tưởng cho bìa sách. Nó tóm tắt nhiều chủ đề trong nghiên cứu, trong đó có mối quan tâm đến những thách thức cho phụ nữ Việt Nam trong những giai đoạn đổi thay và biến động.
Bà Hương sinh ra trong một gia đình trí thức tên tuổi, và học ở trường Mỹ thuật Việt Bắc trong cuộc chiến 1946-54. Sau này bà chia sẻ cuộc đời phụng sự tổ quốc với người chồng, cố giáo sư Lê Cao Đài, tác giả của một hồi ký nổi tiếng nói về thời gian làm trưởng khoa quân y của Việt Minh và sau này làm bác sĩ quân y trong cuộc chiến chống Mỹ. Bức tự họa là hình ảnh tuyệt vời về một phụ nữ Việt Nam nhìn ra thế giới với sự thông minh và hiểu biết. Tôi tin chúng ta có thể nhìn thấy trong đó nhiều điều mà các bạn ở Hà Nội kể cho tôi về những giá trị họ học từ nhà trường, từ bố mẹ, người đi trước. Đặc biệt quan trọng, họ nói, là tư tưởng rằng con người phải được giáo dục, phải dùng giáo dục cho mục tiêu nhân bản, vì lợi ích không chỉ của người thân mà cho cả thế giới. Đôi khi tôi được hỏi tôi có ấn tượng thế nào về đời sống của các gia đình trí thức hiện đại tại Hà Nội hôm nay. Dĩ nhiên mọi người Việt Nam làm việc và sống theo những cách rất khác so với những năm chiến tranh khổ cực, và nền kinh tế kế hoạch những năm sau Thống nhất. Đồng thời, tôi thấy rằng dù có nhiều khác biệt trong đời sống của các gia đình trí thức Hà Nội trong quá khứ và hiện tại – nhiều thanh niên nay chọn nghề trong khu vực tư mà sẽ đưa họ đến những thế giới khác hẳn người đi trước – vẫn còn những sự liên tục quan trọng trong cuộc sống của họ. Điều tôi gặp ở Hà Nội là cảm giác hy vọng và lạc quan tràn ngập rằng di sản học vấn, dạy dỗ của gia đình sẽ tiếp tục được xem là tài sản quý, là điểm tham khảo được người sau trân trọng và phát triển, trong lúc chính phủ và những công dân Việt Nam đề ra những chiến lược để thích nghi với thế giới đang đổi thay nhanh chóng. Về tác giả:Tiến sĩ Susan Bayly hiện dạy ở Khoa Nhân học Xã hội (Social Anthropology) của Đại học Cambridge, Anh quốc. Tác phẩm mới nhất của bà, Asian Voices in a Postcolonial Age - Vietnam, India and Beyond (Những tiếng nói châu Á trong thời kỳ hậu thuộc địa - Việt Nam, Ấn Độ và xa hơn), được NXB ĐH Cambridge ấn hành tháng Mười 2007. Bài viết này được tác giả viết riêng cho BBC Việt ngữ. |
Diễn đàn BBC
CÁC BÀI LIÊN QUAN
Âm thanh của miền Nam thời chiến26 Tháng 8, 2008 | Tạp chí thứ Bảy
Nghiên cứu của nước ngoài về VN22 Tháng 2, 2005 | Trang chủ
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||