![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Hội An - di sản văn hóa thế giới | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Khi tôi đến Đà nẵng và ngỏ ý muốn được tới Hội An, anh bạn người Bắc đang công tác tại đây liền bảo tối mai ngày rằm ở Hội An các nhà sẽ không dùng đèn điện mà chỉ thắp đèn lồng và hứa sẽ đưa tôi tới đến để được thưởng thức khu phố cổ trong ánh sáng đèn lồng đặc biệt đó. Nghe thật hấp dẫn, thế là tôi bằng lòng đợi tới hôm sau mặc dù được nghe nhiều về Hội An, và rất nóng lòng muốn được mắt thấy tai nghe về thành phố nhỏ đã một thời là trung tâm thương mại quốc tế của Việt Nam tại Đàng Trong. Vào thế kỷ 16, 17, các thương thuyền của người Nhật, người Hoa, người Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ấn độ ra vào tấp nập nơi đây, thiết lập thương điếm để buôn bán trao đổi hàng hóa và thậm chí như người Nhật và người Hoa còn lập cả khu phố riêng của mình để cư trú lâu dài. Khi tới Hội An chúng tôi thuê hai chiếc xe xích lô để vào thăm khu phố cổ. Tại đây, chính những người đạp xích lô cũng là các hướng dẫn du lịch đích thực. Giá cả đã có mức, họ không nói thách như ở nhiều nơi khác, hay có thể tôi trông cũng chẳng có vẻ gì là một Việt kiều mới về nước cả.
Ngồi trên xe, hỏi chuyện mới vỡ lẽ tối tắt điện và chỉ thắp đèn lồng là tối mười tư, chứ không phải tối ngày rằm hàng tháng. Thế là tôi tiếc ngẩn ngơ không được tận mắt thưởng thức một tập tục rất nên thơ của vùng đất này. Ngồi trên xe đi dọc con đường nhỏ, cũng là trục chính của khu phố cổ, gọi theo kiểu dân gian là đường Chùa Cầu, trong ánh điện phát ra từ các ngôi nhà cổ hai bên đường tôi có cảm giác thật lạ. Đó là cuộc sống mới, hiện đại của thế kỷ hai mốt vẫn đang tiếp tục nơi đây, không ngưng nghỉ ngay chính trong khung cảnh kiến trúc của nhiều thế kỷ trước. Nó đem lại cho tôi một thoáng bâng khuâng, không hẳn là nuối tiếc quá khứ mà phần nào là do trạnh nhớ tới nhiều nét kiến trúc đô thị ở những nơi khác đã không được may mắn, được duy trì và bảo tồn như tại nơi đây. Những căn nhà một tầng, lợp ngói rêu phong nằm san sát bên nhau trông thật thanh bình. Nhiều ngôi nhà cổ còn giữ nguyên mặt tiền bằng gỗ màu nâu sậm, với các cửa nhà rất khác nhau ngoại trừ của chính mà phần lớn đều có hai ô bát quái. Bác xích lô cho biết vào những ngày lễ, người ta còn lấy vải hồng phủ trên bát quái cho long trọng nữa. Theo ca dao cổ, Hội An ngày xưa còn nghèo, chưa phải là trung tâm buôn bán sầm uất như sau này nên có câu: Hội An bán gánh, bán lều, Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành. Thế nhưng sau này nhờ thương thuyền qua lại, Hội An trở nên phồn thịnh hơn và câu ca dao này đã được sửa đổi cho thích hợp với sự rực rỡ giàu sang của vùng đất này: Hội An bán gấm, bán điều. Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành.
Quả thật khi nói đi xem đèn lồng, là một người xuất thân từ miền Bắc, tôi nghĩ ngay tới những chiếc đèn lồng ngày còn bé, thời chiến tranh, nhà một cô bạn cùng phố vẫn bán. Đó là những chiếc đèn làm bằng nan tre, bọc giấy màu, cái hình tròn, hình chữ nhật, cái màu đỏ, cái màu vàng, với tua rua màu đỏ nhưng nói chung là khá đơn giản, thường được bày bán vào dịp rằm trung thu. Tôi đã thật ngạc nhiên khi đi ngang qua những cửa hàng bán đèn lồng sặc sỡ, cắm điện sáng trưng, muôn màu muôn vẻ, đủ hình dạng, với khung đèn làm bằng gỗ chắc chắn, bọc vải gấm các màu với các loại hoa văn đa dạng. Đến khu phố cổ vào buổi tối để được thưởng thức ánh đèn lồng, ngày hôm sau tôi lại làm một tour xích lô nữa theo đúng trình tự đầy đủ cho một du khách, tới thăm nhiều di tích kiến trúc tại đây. Đến nay, khu phố cổ Hội An vẫn còn giữ được hầu như nguyên vẹn là một quần thể kiến trúc cổ với nhiều loại hình khác nhau, gồm nhà ở, đình, chùa, hội quán, nhà thờ tộc .v.v.
Nói tới khu phố cổ Hội An, phải nhắc tới Chùa Cầu, phân chia ranh giới giữa khu của người Hoa và khu của người Nhật. Người ta cho rằng Chùa Cầu hay cầu Nhật bổn được xây dựng vào giữa thế kỷ 17. Đây là một cây cầu nhỏ bắc ngang một khe nước, mà vào mùa mưa lũ thường chảy mạnh. Cầu gồm hai phần cầu và phần chùa. Phần cầu được làm bằng gỗ, giữa có đường cho xe, ngựa đi lại, hai bên dành cho người đi bộ. Phần chùa nằm sát bên cầu cũng làm bằng gỗ, với tấm biển trên cửa chính đề Lai Viễn Kiều, trước kia thờ Huyền Thiên Đại Đế, tức Bắc Đế Trấn Vũ, một nhân vật được truyền tụng trong đạo Lão. Ngoài ra còn phải kể tới các nhà cổ như Nhà thờ tộc Trần, được xây dựng từ năm 1802, với những cột kèo bằng gỗ quý được chạm trổ công phu, rồi nhà thờ tộc Trương, và các nhà cổ khác như nhà cổ Quân Thắng, với trang trí nội thất công phu, tỉ mỉ, hay nhà cổ Phùng Hưng, mang dáng dấp Nhật bản. Một nét đặc trưng mà người Hoa còn để lại là các Hội quán, như Chùa Kiến Phước, một trong những hội quán được biết đến nhiều nhất tại phố cổ, với cổng chào đồ sộ, sân vườn rộng thênh thang, chốn thờ cúng đầy màu sắc sặc sỡ. Còn rất nhiều chùa chiền, đình, miếu, lăng khác nữa tại Hội An mà tôi đã không có thời gian tới được. Một địa điểm khá ấn tượng là xưởng thủ công mỹ nghệ, với những gian làm đèn lồng, chạm khắc và tạc tượng gỗ, làm đồ trang sức bằng bạc, dệt chiếu cói với những nghệ nhân ngồi biểu diễn ngay tại chỗ. Rời Hội An, tôi vẫn tiếc không được thưởng thức một món ăn đặc sản nào của vùng này nhưng vẫn kịp ra tắm biển Hội An khi chiều xuống và ngồi thư dãn trên bờ biển đã từng là thương cảng quốc tế sầm uất thủa xưa. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||