http://www.bbcvietnamese.com

24 Tháng 11 2004 - Cập nhật 18h38 GMT

Một cái nhìn về viễn cảnh chính trị ở Việt Nam

Chính trị Việt Nam sẽ thay đổi theo chiều hướng nào đã là chủ đề tranh luận của nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài.

Một xu hướng phổ biến nhấn mạnh đến quan hệ giữa phát triển kinh tế và tiến trình dân chủ hóa. Nó cho rằng sau một thời gian, tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc tạo nên tầng lớp trung lưu, với những quan tâm, khát vọng khác biệt với nhà nước chuyên chế, và tạo ra các sức ép đòi mở rộng không gian chính trị.

Nhiều bài viết phân tích tình hình Việt Nam đã nhấn mạnh sự xuất hiện của một xã hội dân sự, của những tầng lớp với các giá trị khác với của nhà nước.

Một xu hướng nữa tìm thấy qua phẩm kinh điển của Barrington Moore, Social Origins of Dictatorship and Democracy (1966). Moore và nhiều người sau này như Rueschemeyer, Evelyne Stephens cho rằng thay đổi chính trị không chỉ phụ thuộc vào sự thay đổi bản chất của từng nhóm xã hội (ví dụ, sự xuất hiện của giới trung lưu...), mà còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các nhóm này và nhà nước.

Áp dụng nền lý thuyết này vào trường hợp Việt Nam, một bài viết đăng trên tạp chí Asian Survey năm 2002 của Martin Gainsborough, trường nghiên cứu châu Phi và phương Đông (SOAS) của Anh, cho rằng viễn cảnh thay đổi chính trị ở Việt Nam cần được nhìn qua các thay đổi bên trong bộ máy nhà nước, hơn là nhấn mạnh sự xuất hiện của các lực đẩy bên ngoài nhà nước.

Để cung cấp thêm một cái nhìn về Việt Nam của giới nghiên cứu nước ngoài gần đây, xin trích giới thiệu nội dung bài tiểu luận này, có tựa đề “Political Change in Vietnam: in search of the middle class challenge to the state.”

Bài viết quan tâm đến các nhận định của Barrington Moore và những người theo trường phái của ông về thái độ của giai cấp tư sản. Họ ghi nhận là tầng lớp trung lưu mặc dù trong lịch sử là lực đẩy dân chủ hóa, nhưng cũng lại thường liên minh với chế độ chuyên chế.

Theo Moore, điều quan trọng không đơn giản là sự tồn tại của một giới trung lưu đông đảo, mà là quan hệ của nó với nhà nước. Nếu giới này muốn ủng hộ dân chủ hóa, nó cần “mạnh mẽ và độc lập” khỏi nhà nước. Trong trường hợp Việt Nam, bài viết sẽ quan tâm đến các quyền lợi kinh doanh xuất hiện từ thời đổi mới.

Tại Việt Nam, đâu là ảnh hưởng của những năm đổi mới vừa qua đối với cơ cấu giai cấp và quan hệ giữa các tầng lớp khác nhau?

Những đại địa chủ

Giai cấp đầu tiên được nhắc đến trong lý thuyết nghiên cứu về dân chủ hóa là các nhà đại địa chủ. Xét theo chiều dài lịch sử, họ có xu hướng chống lại tiến trình dân chủ hóa.

Trong trường hợp Việt Nam, nhìn bề ngoài có vẻ như rõ ràng giai cấp này không tồn tại. Những đại địa chủ đã bị loại bỏ tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt) trong thập niên 1950, và việc này lại tiếp tục ở các khu miền nam giải phóng trong thập niên 1960 và sau chiến thắng của đảng Cộng sản năm 1975. Chiếu theo lý thuyết, việc thiếu vắng giai cấp này có vẻ sẽ hỗ trợ một quá trình chuyển tiếp dân chủ.

Tuy nhiên, phải chăng Việt Nam không có các địa chủ? Bất chấp quy định hạn mức đất nông nghiệp ở nông thôn (hạn điền), nhưng những năm đổi mới đã đi kèm với tình trạng không có ruộng đất ngày càng tăng. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là sự tái trỗi dậy của các nhà địa chủ.

Người ta cũng có thể nói rằng mặc dù những người chủ đất của chính thể cũ đã bị loại bỏ, nhưng thay vào chỗ của họ là sự xuất hiện của một tầng lớp chủ đất mới, đó là các cán bộ và viên chức chính quyền. Thông thường chính họ, hoặc thành viên gia đình họ, là người nắm ưu thế trong nền kinh tế nông thôn. Nếu phân tích này là chính xác, thì viễn cảnh cho sự mở rộng không gian chính trị không sáng sủa lắm.

Nông dân và người lao động ở nông thôn

Giai cấp thứ hai là nông dân và người lao động nông thôn. Theo lý thuyết, người nông dân trong lịch sử quan tâm đến dân chủ hóa, nhưng không phải là sức mạnh tạo ra nó, chủ yếu vì họ thiếu tổ chức.

Việc 20 năm sau đổi mới, Việt Nam tiếp tục là xã hội nông nghiệp dường như bao hàm ý là chỉ có một lực đẩy tương đối yếu cho dân chủ hóa.

Kể từ thập niên 1990, bất ổn ở nông thôn có vẻ trở nên thường xuyên hơn. Còn thiếu các nghiên cứu về nguyên nhân của điều này, nhưng dường như chúng thường liên quan đến các tranh chấp đất đai với giới nắm quyền ở địa phương, và đi kèm các cáo giác tham nhũng. Mặc dù không có bằng chứng về sự tài trợ trực tiếp từ nước ngoài cho bất ổn nông thôn, nhưng các nhóm phản kháng đặt ở nước ngoài và các tổ chức nhân quyền nhanh chóng ủng hộ những cộng đồng nông thôn chịu khó khăn, còn các chính phủ nước ngoài, bao gồm Mỹ, đã chỉ trích cách đối phó của chính phủ Việt Nam trước các vụ việc này.

Nhưng ngoài các trường hợp kiện tụng cá nhân, sẽ là sai lầm nếu người ta nói về một sự đối lập tại nông thôn hiểu theo nghĩa là một tổ chức có nền tảng thể chế chung và một lý luận chặt chẽ chỉ trích sự cầm quyền của đảng. Một số học giả nhắc đến sự phát triển của các nhóm độc lập đại diện cho nông dân, nhưng có ít bằng chứng cho điều này.

Người lao động thành thị

Giai tầng thứ ba là người lao động ở thành thị. Đây được xem là lực lượng quan trọng cho dân chủ hóa. Ở Việt Nam, số người này vẫn còn ít. Tuy nhiên, thời kì đổi mới đã đi kèm với việc đô thị hóa nhanh chóng.

Về khía cạnh lao động có tổ chức, giai cấp lao động thành thị chưa tỏ ra có sức mạnh. Quan hệ lao động đã trở nên phức tạp hơn kể từ đổi mới, và các cuộc đình công cũng phổ biến hơn. Tuy nhiên, không có các công đoàn độc lập, và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tỏ ra vẫn chia sẻ nghị trình của nhà nước là khuyến khích kinh tế và bảo đảm ổn định chính trị, hơn là thật sự đại diện cho người lao động.

Tư sản

Giai cấp thứ tư là tư sản, ở đây được hiểu là tầng lớp kinh doanh hoặc sở hữu vốn. Quan niệm thông thường xem những doanh nhân là một phần của tầng lớp trung lưu, và vì thế là lực đẩy cho dân chủ hóa.

Tuy nhiên, theo quan điểm của Moore, Rueschemeyer và nhiều người khác, tư sản được xem là có quan điểm không rõ ràng đối với dân chủ hóa. Ví dụ, tác giả Richard Robison nhắc tới một “hiệp ước cùng thống trị” giữa tầng lớp doanh nhân và chế độ chuyên chế Suharto ở Indonesia – một quan hệ dựa trên các quyền lợi chung.

Tại Việt Nam, những năm qua đã có sự xuất hiện của một giới tinh hoa mới trong kinh doanh.

Tuy nhiên, mặc dù giới tinh hoa này là hiện tượng mới nếu xét về các quan tâm kinh doanh của họ, nhưng họ lại là cũ khi xét về quan hệ chính trị. Nghĩa là, nhiều người trong số các doanh nhân mới này xuất thân từ bên trong hệ thống hiện nay, đang là hoặc từng là viên chức, hoặc là con cái của giới lãnh đạo.

Để làm ăn thành công, các công ty vẫn phụ thuộc nhà nước để có giấy phép, hợp đồng, tiếp cận vốn và đất, và cả sự bảo vệ. Như thế, Việt Nam vẫn thiếu “một giai cấp tư sản độc lập hoặc lớn mạnh” mà Moore xem là yếu tố cần thiết cho dân chủ hóa.

Lý thuyết về dân chủ hóa cũng nhấn mạnh sự quan trọng của quan hệ giữa tư sản với người lao động thành thị. Nếu giới trung lưu cảm thấy bị đe dọa bởi người lao động đô thị, họ có khả năng trở nên bảo thủ hơn. Nếu không, họ có thể liều lĩnh hơn.

Không có mấy bằng chứng là có sức ép manh mẽ đòi thay đổi chính trị từ cộng đồng kinh doanh. Đã có những kêu gọi như cần có sân chơi bình đẳng cho mọi công ty, mở rộng thông tin, bớt sách nhiễu – người ta có thể nhìn thấy ở đây giai đoạn đầu của một sự phân rẽ giữa tư sản và nhà nước. Tuy nhiên, những kêu gọi như thế không lớn khi so sánh với việc cũng chính những công ty này rất nhiệt tình (vì bắt buộc) khi tìm kiếm ưu đãi từ nhà nước.

Giới công chức và trung lưu

Nhóm xã hội thứ năm là giới công chức và trung lưu. Tại Việt Nam, nhóm này bao gồm những cán bộ, công chức nắm giữ các vị trí trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, mặc dù có thể có một số sự chồng chéo với tầng lớp kinh doanh hoặc sở hữu vốn. Một nhóm khá mới trong phạm trù này là các nhân viên Việt Nam làm việc cho công ty nước ngoài.

Một vài năm trước, một số học giả nhấn mạnh đến khoảng cách ngày một tăng giữa các nhóm như vậy với nhà nước, cho rằng con người ngày càng tổ chức đời sống tách biệt khỏi ảnh hưởng của nhà nước. Mặc dù việc một người làm cho công ty nước ngoài có thể quan trọng, nhưng Martin Gainsborough lại nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ liên tục giữa nhóm này và nhà nước, xét về nguồn gốc tương đối đặc quyền của họ, cũng như trọng tâm trung thành của họ, hay sự sẵn sàng gia nhập đảng...Như vậy, giống như giới tư sản, các nhân viên người Việt làm cho nước ngoài vẫn “thuộc về hệ thống”.

Nếu nói về khả năng thay đổi trong khu vực này, có thể nghĩ rằng khi giới trung lưu ngày càng có cơ hội ra nước ngoài, họ sẽ đối mặt với các cách sống và làm việc khác, khiến họ bớt kiên nhẫn với cách hành xử ở Việt Nam. Hiện tượng này có thể là những quan sát về giá cả hàng hóa đắt ở Việt Nam so với các nước khác trong vùng, hay so sánh về tệ quan liêu và tham nhũng.

Nhà nước yếu hay mạnh?

Bên cạnh việc phân tích thái độ của các tầng lớp xã hội và quan hệ giữa các nhóm này, người ta cũng cần phân tích bản chất của quyền lực nhà nước để soi sáng câu hỏi liệu một nước có dân chủ hóa hay không.

Nhiều năm qua, bản chất của quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã thu hút những cách phân tích khác nhau.

Ví dụ, Joel Migdal (1988) mô tả Việt Nam là “nhà nước mạnh”, đặt nó chung với Israel và Nhật cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác. Migdal cho các nhà nước này là mạnh vì theo ông, chúng có khả năng điều động các định chế nhà nước thực hiện các công việc chính sách bất chấp sự tồn tại của các trung tâm quyền lực khác. Một số người khác lại cho rằng khả năng của nhà nước Việt Nam không mạnh như người ta nghĩ.

Martin Gainsborough lại cho rằng tựu trung nhà nước ở Việt Nam mạnh, nhưng nó phụ thuộc vào từng hoàn cảnh, vì thế mà tạo nên các phân tích khác nhau. Nếu quan sát công việc hàng ngày của các định chế và bộ máy nhà nước, người ta thấy thói thường quyền lực ở các định chế nhà nước bị phân lập, và các cơ quan cao hơn trong bộ máy chỉ có khả năng hạn chế khi muốn điều động các cơ quan bên dưới ('trên bảo dưới không nghe'). Vì thế quyền lực bị phân tán. Nhà nước ở thế yếu. Tuy nhiên, nếu quan sát vai trò của công an trong cuộc sống hàng ngày của người dân, nhà nước lại có vẻ mạnh.

Ngoài ra, trong các cuộc thanh tra định kỳ (periodic) nhắm vào các hoạt động kinh doanh khả nghi, và trong việc truy tố các vụ tham nhũng lớn, nhà nước chứng tỏ khi bộ máy cảm thấy phải chuyển động, nó có thể rất mạnh mẽ.

Như vậy, 20 năm sau đổi mới, việc nhà nước vẫn có một quyền chủ động tương đối có vẻ không thuận lợi cho tiến trình chuyển tiếp dân chủ. Lý thuyết về dân chủ hóa nhấn mạnh rằng sự có mặt thường xuyên của quân đội và công an trong nhà nước đặc biệt bất lợi cho một sự chuyển tiếp. Tại Việt Nam, hai định chế này đã luôn có mặt trong các vị trí lãnh đạo chủ chốt.

Các lực lượng xuyên quốc gia

Lý thuyết về dân chủ hóa cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các lực lượng xuyên quốc gia trong vấn đề thành công hay thất bại của một tiến trình chuyển tiếp.

Sự chấm dứt chiến tranh Lạnh cũng chấm dứt cái nhìn xem Đông Nam Á là các quân bài domino trong cuộc tranh đấu ý thức hệ. Vì thế, các nước này đã chịu sức ép từ Mỹ và EU quanh các vấn đề nhân quyền và cai trị. Việt Nam cũng chịu sức ép này. Nhưng mặt khác, dường như Việt Nam không đến mức dễ bị đe dọa trước các luồng xâm nhập tư tưởng từ ngoài – khác với Lào, chẳng hạn.

Vị trí của Việt Nam ở Đông Nam Á và việc là thành viên của ASEAN cũng đem lại một tấm đệm nhất định ngăn sức ép thay đổi từ Mỹ và EU. Dù có sự khác biệt giữa hệ thống các nước trong ASEAN, nhưng các thành viên đều bộc lộ một mức độ chuyên chế nhất định và duy trì nguyên tắc không can thiệp chuyện nội bộ của nhau.

Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc cũng có thể nói góp phần củng cố chế độ tại Việt Nam. Dù hai nước này có khác biệt thế nào, họ đều có chung sự không tin tưởng trước quyền lực toàn cầu của Mỹ và cả hai đều theo quan điểm cải tổ kinh tế mà không mất quyền kiểm soát chính trị.

Ngoài ra, một thiên hướng phổ biến là nhấn mạnh rằng trong thời đại toàn cầu hóa, việc hòa nhập vào nền kinh tế thế giới thường bất lợi cho chế độ chuyên chế. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tài trợ nước ngoài và vốn tư bản đổ vào lại giúp củng cố quyền lực nhà nước, vì chính các định chế và công ty nhà nước thường là người hưởng lợi chính.

Sau chế độ một đảng sẽ là gì?

Từ đầu, bài viết nhấn mạnh sự quan trọng của việc thoát ra khỏi cách nghĩ rằng Việt Nam nhất định sẽ đi trên con đường lịch sử hướng tới chế độ dân chủ kiểu phương Tây. Như vậy, câu hỏi trong bài đặt ra là còn hướng đi nào khác cho việc mở rộng không gian chính trị tại Việt Nam?

Một phần câu trả lời có thể nằm trong việc xem lại các quan niệm như nhà nước và xã hội. Thay vì đi tìm sự xuất hiện của một xã hội dân sự (civil society) lớn mạnh đối lập với quyền lực nhà nước, bài viết muốn người ta tìm hiểu những gì xảy ra bên trong nhà nước.

Một số học giả khác đã theo quan điểm tương tự. Trong quyển Toward Illiberal Democracy in Pacific Asia (1995), Daniel Bell và Kanishka Jayasuriya viết:

“Động lực cho cải tổ chính trị xuất hiện không phải từ việc khẳng định các quyền lợi độc lập của các giai cấp xã hội, mà từ xung đột bên trong nhà nước; cải tổ chính trị liên quan việc đối phó với xung đột bên trong nhà nước, hơn là liên quan sự tái cơ cấu căn bản quan hệ giữa nhà nước và xã hội.”

Martin Gainsborough cho rằng điều này thể hiện các nhà nước tại châu Á xây dựng trên một di sản triết học và văn hóa khác phương Tây. Khi Lý Quang Diệu nói về nhu cầu hạn chế “cách người dân dùng lá phiếu để mặc cả, ép buộc, xô đẩy” chính phủ, ngôn từ đó không đơn giản là nói lấy được, mà thể hiện một các hiểu hoàn toàn khác về quan hệ giữa nhà nước và xã hội.

Đã nhiều người nhấn mạnh đến các yếu tố như xã hội dân sự, tầng lớp trung lưu, tôn giáo đối lập, trí thức phản kháng, bất mãn của thanh niên, bất ổn ở nông thôn.

Theo Martin Gainsborough, tất cả những điều này đều là hiện tượng có thật, nhưng ở Việt Nam, đấu trường chính là ở bên trong nhà nước. Vì thế, nếu quan sát một số các cuộc tranh luận chính trị liên quan mối quan hệ giữa đảng và chính quyền, vai trò Quốc hội, vấn đề tập quyền và tản quyền, hay cách thức điều hành doanh nghiệp nhà nước, thì mức độ thay đổi hay việc mở rộng không gian chính trị phải được xem trong quan hệ với các định chế nhà nước. Ví dụ, đảng có thể vẫn giữ quyền tối cao, nhưng phải chấp nhận cho phép các định chế chính quyền mạnh mẽ hơn, một Quốc hội mạnh mẽ hơn.

Cũng như vậy, các quan tâm của giới kinh doanh, thay vì tìm cách biểu đạt qua một tổ chức tách khỏi nhà nước, thì lại chuyển vào kênh của các tổ chức như Phòng Thương mại Công nghiệp hay Hiệp hội ngân hàng. Ngay cả nếu người ta dự đoán một ngày nào đó các tổ chức này sẽ tách khỏi nhà nước, thì có thể cho rằng họ vẫn duy trì một cách hiểu khác phương Tây về mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội.

Thay đổi chính trị ở Việt Nam tất yếu sẽ diễn ra, nhưng một bài học từ châu Á là sự mở rộng không gian chính trị có nhiều phần khả năng xuất phát từ thay đổi bên trong các định chế nhà nước, hơn là nhờ sự xuất hiện của một xã hội dân sự năng động như tưởng tượng tại phương Tây.

Bài viết kết luận: Liệu điều này có tạo ra sự thoát khỏi hoàn toàn hệ thống độc đoán hay không còn là điều bàn cãi. Có thể đoán rằng khả năng lớn hơn cả là sẽ có sự nới lỏng dần dần những mặt cứng nhắc của hệ thống quản lý nhà nước.

..................................................................................

Huy Đăng, Hà Nội
Tôi cho rằng Việt Nam vẫn nằm trong quy luật phát triển của đất nước đang phát triển và một dân tộc đang phat triển nó chứa đựng mọi mặt trong đó. Nếu mọi người Việt và các nhà lãnh đạo đặt từ "Dân tộc" nên hàng đầu thì sẽ không cần quan tâm đến viễn cảnh chính trị tương lai thế nào vì sự phát triển luôn có quy luật mà chỉ cần định hướng đúng là được.