![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Suy nghĩ về giá của cuộc chiến tranh | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đối với châu Á, thế kỷ 20 thật dài và phát triển không ngừng. Năm 1842, Trung Quốc có cuộc chiến thuốc phiện và mất Hồng Kông. Nhưng đến năm 2000, họ là một quốc gia gần như thống nhất, kinh tế phát triển. Thế kỷ dài của Việt Nam bắt đầu với chế độ thuộc địa. Nhưng một thế hệ mới sau đó trưởng thành, lập nên các phong trào trong thập niên 1910-30, hưởng cơ hội thống nhất năm 1945. Tuy vậy, còn mất 30 năm tranh đấu và hy sinh trước khi đất nước thống nhất năm 1975. Rồi cải cách 1986 mở ra một giai đoạn phát triển mới và hiện dự đoán tăng trưởng còn tiếp tục. Xin giới thiệu trích đoạn một tiểu luận của nhà sử học Stein Tonnesson, chiêm nghiệm về một thế kỷ đã qua của Hà Nội và xem Hà Nội cũng như Việt Nam đã chịu tác động thế nào từ các xu hướng toàn cầu. Phần trích lược dưới đây là phần cuối cùng của tiểu luận nguyên bằng tiếng Anh nhan đề "Hanoi's Long Century" (2002). Như nhiều thế kỷ khác, thế kỷ 20 là thế kỷ của chiến tranh: các cuộc chiến quốc tế, chiến tranh giải phóng dân tộc, nội chiến. Người ta thường nghe nói trong thế kỷ 20 xảy ra nhiều đau thương hơn mọi thế kỷ khác. Điều này đúng khi xét về số lượng. Tuy vậy, số lượng người sống lâu và yên lành cũng tăng, không chỉ ở Việt Nam. Quan niệm phổ biến ở phương Tây rằng thế kỷ 20 đặc biệt bi thương, và cũng không có ý nghĩa dường như không hề đúng khi nhìn từ góc độ của người châu Á. Cuộc chiến Việt Nam mang tính bi kịch. Liệu nó có còn mang ý nghĩa? Một số người nói mặc dù Mỹ thua tại Việt Nam, nhưng nó đã ngăn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Như thế cuộc chiến có ý nghĩa khi nhìn ở góc độ chống cộng. Điều này khó mà thuyết phục. Việt Nam là một trong các nước nơi mà người cộng sản nhận được sự ủng hộ rộng rãi nhất. Đối với nhiều nơi trên thế giới, Việt Nam đã trở thành biểu tượng của kháng chiến dân tộc, một ví dụ cho thấy một dân tộc nghèo có thể vượt qua sự tấn công của siêu cường số một thế giới. Mặc dù không có khảo sát hay bầu cử để đo lường, nhưng có thể nói đa số người VN, mặc dù họ không chia sẻ viễn kiến cộng sản, vẫn thấy mình có điểm chung với những người lãnh đạo trong cuộc đấu tranh vì độc lập và thống nhất. Đối với những người lãnh đạo cộng sản, cuộc chiến mang đầy ý nghĩa và chiến thắng đáng giá cho toàn bộ khổ đau. Nhưng liệu họ đã có thể đạt đến cùng mục tiêu với ít hy sinh hơn hay không? Năm 1995 và năm 1997, hai cựu bộ trưởng quốc phòng, Võ Nguyên Giáp và Robert McNamara, gặp nhau ở Hà Nội để thảo luận về cuộc chiến vừa qua. Trong thập niên 1960 McNamara đã xem các thông số trên máy tính của Lầu Năm Góc cho thấy đối phương đang chịu những thiệt hại không thể bù đắp. Ông nghĩ điều này sẽ buộc Hà Nội phải ra bàn đàm phán. Tính toán của ông sai lầm. McNamara đánh mất niềm tin, và được tổng thống Johnson cho thôi việc, nhưng chiến tranh vẫn tiếp tục. McNamara đến Hà Nội năm 1995 với ba mục đích: thừa nhận sai lầm, tìm sự thật về những tính toán của phía bên kia, và yêu cầu tướng Giáp thừa nhận sai lầm. Đối với McNamara, hành vi của người Việt là phi lý. Khi anh chịu những thiệt hại không thể bù đắp, thì điều nên làm là tìm đường rút. Nhưng người VN không làm thế mà họ tiếp tục chiến đấu. Chắc phải có những hiểu lầm nào đó. Nếu những hiểu lầm này được tránh, hàng triệu mạng người đã có thể được sống. Ông Giáp cũng như mọi lãnh đạo Việt Nam không thừa nhận có sai lầm, cũng như không chia sẻ trách nhiệm của Mỹ đối với các thương đau. Họ nói: "Chúng tôi không tấn công đất nước các ông. Ông đã đến đây. Chúng tôi phải chiến đấu." Đối với người lãnh đạo cộng sản Việt Nam, việc thống nhất đất nước xứng đáng cho hầu như mọi hy sinh. Họ có một quốc gia để thống nhất, một cuộc cách mạng để bảo vệ, một lịch sử bị nô dịch phải vượt qua, và họ nghĩ về mình như đội quân tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu. 50 năm trước đó, một người khác đã hỏi tướng Giáp cùng một câu hỏi như của McNamara. Abbot Low Moffat, đứng đầu phân ban Đông Nam Á của Bộ ngoại giao Mỹ, đến Hà Nội tháng 12-1946, ngay trước khi nổ ra cuộc chiến Đông Dương thứ nhất. Moffat đặt câu hỏi về sự mất mát sinh mạng thường dân mà chắc chắn xảy ra khi chiến tranh bùng nổ. Theo lời kể lại của Moffat, câu trả lời của tướng Giáp là "phải có hy sinh." Viên tổng lãnh sự Mỹ có mặt khi đó lên tiếng rằng hy sinh cần vì một mục tiêu nhất định, nhưng đây là mục tiêu nào? Tướng Giáp chỉ nhắc lại nhu cầu hy sinh và nói thêm người Việt có thể không thắng lợi, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, người Pháp cũng không thể thắng. Đây là thái độ đã đưa VN đến chiến thắng. Người VN không "thắng" theo nghĩa quân sự thuần túy. Mà họ cũng không mong chờ điều đó, nhưng họ làm đối phương tàn rã bằng cách hy sinh. Tướng Giáp là kiến trúc sư chính đằng sau việc xây dựng một quân đội và một nhà nước có tổ chức đến mức có thể động viên người dân trong 30 năm để chịu đựng những điều không thể chịu đựng. Và dân số vẫn tiếp tục tăng trưởng. Trẻ em sinh trong chiến tranh Đông Dương lần một hy sinh trong cuộc chiến lần hai. Một bi kịch yêu nước, anh hùng. Một lần nữa, câu hỏi là nó có ý nghĩa không? Câu hỏi này cần đặt trong quan hệ với một lịch sử rộng lớn hơn về kinh nghiệm của Hà Nội và Việt Nam trong chiến tranh và xây dựng quốc gia. Khi chiến tranh nổ ra ở châu Âu năm 1914, người Việt còn là dân tộc bị đặt làm thuộc địa. Có thể đã có tới 100.000 thanh niên được đưa sang châu Âu phục vụ cho Pháp. Nhiều người không quay về, trong khi nhiều người khác tiếp thu kiến thức về chiến tranh và thời hiện đại. Các cuộc nổi dậy trong thập niên 1920-30 vô vọng, nhưng năm 1942, Nhật đã chứng tỏ sự yếu kém của các đế chế châu Âu. Tháng Ba năm 1945, họ chứng tỏ nó bằng cách chiếm thành Hà Nội từ tay Pháp chỉ trong 24 giờ. Trong hơn một năm sau Cách mạng tháng Tám, một thành phố Hà Nội cách mạng được ngơi nghỉ, và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh trường kỳ. Chiến tranh nổ ra ngày 19-12-1946, chỉ vài ngày sau khi Abbot Low Moffat ra đi. Lúc này, Hà Nội gần như vắng người vì chính phủ đã sơ tán đa số dân chúng. Chính phủ thúc giục người dân tránh khỏi thành phố và tham gia kháng chiến. Những người yêu nước và cánh tả đi theo, nhưng đa số các công dân Hà Nội lại quay về. Sau một thời gian, có thêm làn sóng người mới, những người thấy khó sống trong các ngôi làng do người cộng sản kiếm soát. Vì thế Hà Nội trở thành một đơn vị đồn trú và thành phố buôn bán với tương đối ít người ủng hộ Việt Minh. Sau năm 1954, nhiều doanh nhân, viên chức và người Công giáo đi vào Nam. Người Pháp đã đưa Hà Nội trở thành một thành phố thống nhất có thị trưởng và bộ máy hành chính hiện đại. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhiều tham vọng hơn và đã lập nên hệ thống quận, huyện, phường... Điều này giúp việc theo dõi được dễ dàng. Hệ thống này vượt qua thử thách khi Mỹ đánh bom năm 1966. Nó tạo nên một cảm giác tự nhiên về tình đoàn kết, và thắt chặt kỷ luật xã hội. Tác động chính của cuộc đánh bom có lẽ chỉ là giúp thêm cho các nỗ lực của nhà nước muốn động viên nhân dân hy sinh. Nhưng các quả bom cũng hủy diệt các ngành công nghiệp được xây nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc. Nói một cách tương đối, bom Mỹ không giết nhiều người ở đồng bằng sông Hồng. Khía cạnh tồi tệ nhất của cuộc chiến đối với các gia đình miền Bắc là việc gửi con vào Nam và không bao giờ còn nhìn thấy họ. Trong cuốn sách hồi ký của mình, tướng Văn Tiến Dũng kể lại trong ngày chiến thắng ở Sài Gòn, ông nhận được một cuộc gọi từ 'trái tim tổ quốc': "Hà Nội, thủ đô của cả nước, Hà Nội anh hùng đã đạt đến thắng lợi này, cùng với cả nước." Vị tướng nói như thế. Đối với ông, cuộc chiến mang đầy ý nghĩa. Giọng điệu trở nên khác biệt khi nhiều năm sau, một trong những người lính còn sống sót, Bảo Ninh, xuất bản tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Nó kể về người lính, Kiên, quay về Hà Nội sau chiến tranh. Anh và bạn bè không gọi mình là người Hà Nội, mà là 'lính Thăng Long', tự hào khơi gợi cái tên cũ của thành phố quê nhà. Giờ đây, trong mùa thu năm 1975, đa số bạn của Kiên đã chết và một Hà Nội chào đón anh không giống nhưng anh tưởng tượng. "Cái cảm giác hòa nhập, cảm giác đồng điệu ngày mới quân ngũ trở về anh thường cảm thấy khi đi trong phố xá giữa mọi người giờ đây không còn nữa. Ám ảnh cô đơn luôn bám gót Kiên, nỗi cô đơn không của riêng anh mà của cả đám đông. Nỗi cô đơn của cả một dòng người. Sự cô đơn của nghèo nàn và đơn lẻ lồ lộ phơi bầy trong các số phận đồng loạt, lầm lùi đi bên nhau nối nhau thành dòng nước quẩn." Nhân vật của Bảo Ninh cảm nhận về Hà Nội thời hậu chiến như thế. Trong lúc Kiên đối diện với các chấn thương của mình, một thế hệ mới lại đi chiến đấu, ở Campuchia và biên giới với Trung Quốc. Cuộc chiến tại Campuchia là một cuộc đấu tranh chống nổi dậy lâu dài, khi mà quân đội VN ở trong một vai trò không quen thuộc, tức là trấn áp kiểu đánh du kích và làm chỗ dựa cho một nhà nước vệ tinh. Cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba ngày càng trở nên khó thấy có ý nghĩa. Trong thập niên 1980, nhiều người Hà Nội, trong chốn riêng tư, nhận thấy đất nước đã mất nhiều vì chiến tranh. Trong lúc nước VN XHCN phát triển chậm lại, những con hổ tư bản láng giềng có sự phát triển mạnh. Trung Quốc cũng gia nhập vào năm 1979. Hà Nội nhận thấy thế giới đang đổi thay. Một chính sách cải tổ được đưa ra và các cải cách mang tính thị trường được thực hiện trong những năm sau đó. Nhà trị nước của Singapore, Lý Quang Diệu, một trong những người từng nghĩ cuộc chiến VN là cần thiết vì nó ngăn cộng sản bành trướng, trở thành cố vấn cho chính phủ VN. Quan hệ với Mỹ được bình thường hóa năm 1995, khi VN cũng trở thành thành viên của ASEAN. Trong thập niên 1990, VN là một quốc gia yếu, độc lập một cách tự hào nhưng không có đồng minh. Một số cựu chiến binh thất vọng vì sự biến mất các giá trị và định chế XHCN, và một số nhà cánh tả phương Tây xem tham nhũng và sự bất bình đẳng gia tăng là bằng chứng rằng người VN, sau khi giành chiến thắng trong chiến tranh, đã để mất hòa bình vào tay các thế lực tư bản toàn cầu. Tuy vậy, đa số nhà bình luận đồng ý với thế hệ trẻ rằng VN cần mở cửa, và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Họ không thấy có lối đi nào khác để thoát cảnh nghèo. Trong tiến trình chuyển sang kinh tế thị trường, các cuộc chiến trở nên ít ý nghĩa hơn, ít nhất đối với thế hệ trẻ, những người không quan tâm đến lịch sử. Nhưng dù vậy, nếu bị buộc phải có một suy ngẫm lâu dài hơn, thì ngay cả họ có lẽ cũng nhìn con đường tương lai dẫn đến phồn vinh của mình như một sự nối dài của một thế kỷ bi kịch, nhưng đầy ý nghĩa. Về tác giả: Stein Tonnesson là Giám đốc của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế, Oslo. Chuyên ngành của ông là lịch sử và gần đây chuyển hướng nghiên cứu về an ninh tại biển Đông. Tác phẩm "The Vietnamese Revolution of 1945" (in năm 1991) của Stein Tonnesson được môt nhóm các nhà sử học ở Hà Nội dịch sang tiếng Việt năm 1994, nhưng sau đó không được cấp giấy phép phát hành. Toàn văn bài viết giới thiệu tại đây vốn in trong tập sách "A Companion to the Vietnam War", do Marilyn Young và Robert Buzzanco biên tập, NXB Blackwell ấn hành năm 2002. ........................................................................................... Hoàng Anh, Vinh Trong suốt chiều dài lịch sử của mình người Việt Nam đã chứng kiến sự xâm lăng và bành trướng của người láng giềng vĩ đại phương Bắc, hết Liêu, Kim, Nữ Chân, Đại Lý lần lượt biến mất trên bản đồ thế giới, chỉ duy có nước Việt là tồn tại thậm chí là mở mang được bờ cõi. Vì không phải là người Việt Nam nên người Mỹ không hiểu được thế nào là "Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư". Người Việt Nam tự hào đến nỗi tự gọi mình là Đại Việt, cụm từ này nếu dịch ra tiếng Mỹ là gì? là Big Viet ư, sai bét, sự khác biệt này người Mỹ làm sao hiểu nổi. Kỷ nguyên Đông Á đang đến gần, người Mỹ sẽ dần dần nghiệm ra nhiều điều nữa. Thanh, Hà Nội Nhiều người phê phán đảng cộng sản về việc này việc nọ nhưng không thể giải quyết trong một thời gian ngắn tất cả các vấn đề đó được, Việt nam đang cố gắng hết sức để xây dựng cơ chế pháp lý đảm bảo cho sự phát triển bền vững của dân tộc. Đã là người con đất Việt thì phải góp sức vào phát triển đất nước chứ cứ đứng đó phê phán mà không thấy kỳ sao. Quốc Trọng, Paris Giúp gì mà cần tới nửa triệu(500000)lính,quân lực VNCH hùng mạnh lắm kia mà!? cái từ"đổi mầu da trên xác chết""Việt Nam hoá chiến tranh""thay ngựa giữa dòng".. ở đâu ra?!! ném bom miền Bắc, các loại máy bay tối tân, kể cả B 52,chất độc hoá học..trừ bom nguyên tử tàn sát dân thường cũng là giúp, giải phóng, ân huệ cuả Hoa Kỳ, mà anh bạn QH ra sức đổi trắng thay đen. Ngày xưa,nếu Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ chống quân xâm lược, hy sinh bao nhiêu trai tráng đất Việt,..biết trước sự mất mát to lớn mà vẫn làm, có nghĩa là"không ăn thì đạp đổ" như ý nghĩ cuả anh bạn QH hay sao?!! Minh, Hà Nội Tại sao ở Thái Lan theo Mỹ mà vẫn thấy độc lập tự do mà chẳng cần hi sinh và bây giờ Việt nam cứ phải phấn đấu để bằng Thái lan? Quốc Huy Ông có nghĩ VNCH cũng là người VN không? tại sao Mỹ không giết hết người VNCH mà chỉ có CS giết thôi? Dù hy sinh tất cả mà vẫn đánh thì cuối cùng đánh để cho cái gì thưa ông? “Đánh” cái kiểu đó người ta gọi là “không ăn được thì đạp đổ”. Với đầu óc thù hận Mỹ như vậy không hiểu nếu ông nhìn thấy lính Mỹ bước xuống từ chiến hạm mới ghé thăm VN thì ông nghĩ họ sẽ bảo vệ hay giết người dân VN, và nếu họ lập căn cứ quân sự tại VN thì sao? Hồ Long, TP. HCM Như việc cấm các ca khúc mà người trong nước gọi là nhạc sến thì bạn cứ đi rảo bước khắp chốn SG đâu đâu cũng nghe thấy chắc họ bà con với CS đấy nhỉ nên ko bị bắt. Và nhiều việc rất là ngộ đấy các quý cứ về VN rồi biết. Trần Vinh, Việt Nam Nước VN là của người VN, người VN không thể nào chấp nhận làm nô lệ cho Mỹ ngay trên Tổ quốc mình. Những ai còn có ý đưa ra lý lẽ này nọ để bào chữa cho quân Mỹ xâm lược, đổ tội sang phía những người đánh đuổi Mỹ ra khỏi VN đều là những kẻ có đầu óc nô lệ. Tiếng nói của họ, tiếng kêu gào 30 năm nay của họ chỉ là những tiếng kêu gào không công cho sự bá quyền của Mỹ mà thôi. VN ngày nay dù nghèo đói thế nào đi nữa thì cũng không thể đem ra mà bào chữa cho giặc Mỹ xâm lược ngày xưa được. Nói chung, đối với dân tộc Việt Nam thì không có lý lẽ nào có thể dùng để bào chữa cho tôi theo giặc ngoại bang xâm lược, bất kể anh khoác vào mình cái áo “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” hay là áo nào đi nữa. Việt, Dallas Là người thuộc thế hệ sinh ra và lớn lên ở VN trong giai đoạn đất nước thống nhất, tôi rất đau buồn khi tiếp cận những thông tin về thiệt hại sinh mạng. Khi tôi ở trong nước, tôi rất tự hào VN là đất nước hùng mạnh đầy chiến tích. Bây giờ thì tôi nghĩ thay vì ca ngợi chiến tích, xây dựng tượng đài, chính phủ VN nên viết sách mô tả sự thật về sự mất mát sinh mạng của đồng bào. Nên xây một dạng ngôi đền hay đài tưởng niệm những người xấu số để thế hệ trẻ sau này nhìn vào đó mà vươn lên. Quạt Mo Vũ khí tinh thần mạnh mẽ nhất mà những người CS trang bị cho nhân dân, cho binh sĩ dưới tay họ là "chống ngoại xâm" là "bảo vệ tổ quốc", là "giải phóng dân tộc". Họ sử dụng vũ khí đó để chủ động tấn công, thì dù có bị dồn vào chân tường, vũ khí đó lại càng mãnh liệt. Còn vũ khí tinh thần phía VNCH xử dụng chỉ mang tác dụng phòng thủ, chống trả dưới những danh từ "chống CS xâm lăng", "bảo vệ miền Nam tự do", hoang tưởng hơn là "bảo vệ thế giới tự do" mà người dân Việt Nam khi ấy hầu hết chưa rõ thế nào là CS, chưa thấm thía thế nào là mất tự do, dù họ vừa thoát khỏi thời kỳ Pháp đô hộ. Cho nên dân quân miền Nam tinh thần yêu nước là đương nhiên có, nhưng đầu óc căm thù anh em mình thì không mãnh liệt, dễ thối lui, dễ chấp nhận. Do đó lúc đầu quân đội Giải Phóng miền Nam dùng lựu đạn ve chai, dùng súng "ngựa trời" càng thô sơ càng làm đau lòng xót dạ tình đồng bào dân miền Bắc, càng làm ngơ ngẩn dân miền Nam. Những năm sau này quân đội miền Bắc xâm nhập miền Nam với súng AK47, xe T54, sơn pháo 120 ly của khối CS để tấn công quân miền Nam sử dụng súng M16, xe M48, đại bác 175 ly của Mỹ và họ cũng có đủ loại hỏa tiễn tầm nhiệt để chống B52 oanh tạc trên miền Bắc. Sau đợt miền Bắc tổng công kích nhắm vào quân đội VNCH Tết Mậu Thân bị thiệt hại đáng kể, thì anh "Lầu năm góc" Mỹ lại tính chi ly thiệt hại của địch quân để kết luận miền Bắc không thể nào hồi phục sớm. Bởi lẽ họ phỏng đoán nguồn nhân lực thanh niên miền Bắc bị kiệt quệ và thời gian huấn luyện cần thiết, cùng những gánh nặng quốc gia phải trang trải cho chiến phí và tử tuất. Họ nghĩ rằng quân đội nước nào cũng dựa trên sắc luật động viên, chỉ tuyển mộ nam giới và trên 17 tuổi, phải học kỹ thuật tác chiến, phải bồi thường chiến nạn,..v.v . Hơn nữa phía miền Bắc chủ động tấn công, nên khi yếu thì họ phân tán, lúc cần vẫn có thể tập trung, họ không cần bảo vệ một ngã ba sông, một cây cầu nhỏ phải xé lẻ kực lượng như phía mi! n Nam. Do đó để theo đuổi cuộc chiến đến một mức độ nào đó, bất kể cho dân tộc hay cho một ý thức hệ, quan niệm khác nhau thì đánh giá thiệt hại cũng khác nhau. Ngày nay ông McNamara đã nhận ra mình sai, nhưng nếu vẫn chưa khai thác được lòng yêu nước, vẫn đóng vai trò "Sen đầm quốc tế" thì Mỹ sẽ còn sai mãi. Bình Minh, Hà Nội Lúc đó VN đâu có sống bằng công nghiệp. Khi Mỹ dội bom miền bắc họ không nghĩ đến một hậu quả tai hại cho chính quyền Sài qòn. Người Miền bắc thấy như bị dồn đến chân tường, bom đạn dội ngay trên quê hương họ. Chính những trận bom này thúc đẩy thanh niên miền bắc vào nam chiến đấu. Theo tôi hành động sai lầm nhất của Mỹ là ném bom HN và miền bắc. Còn nguyên nhân sâu xa là họ hoàn toàn không chịu tìm hiểu xã hội VN. Họ giống như một cậu ấm con nhà giầu, chỉ biết vung tiền mà không xem xét đến hậu quả! Văn Phúc, Hà Nội Và chúng ta không có quyền phủ nhận hay xuyên tạc những giá trị độc lập, tự do mà cuộc chiến đấu mang lại cho người dân Việt nam. Còn như bạn Quân nói: "...tự do phải được hiểu là những kẻ không hay ho gì của VN được tự do làm bất kỳ điều gì mà họ muốn và kể cả có hại cho người khác". Điều này có thể xảy ra ở đâu đó, nhưng nó xảy ra ở sau cuộc chiến và mục đích độc lập, tự do của VN là hoàn toàn không liên quan đến các điều bất cập này. Điều này là do cách điều hành, quản lý của chúng ta còn hơi yếu kém, nhưng nó cũng xảy ra ở rất nhiều nước, không riêng gì ở VN. Quân, Huế Tôi được sinh ra và lớn lên ở Việt Nam sau khi cuộc chiến này đã kết thúc và tôi hiểu được ai là người thắng, cái được của họ là gì? Việt Nam được "độc lập" nhưng cái chữ "độc lập" ở đây không có nghĩa là nhân dân Việt nam được độc lập, mà nó có nghĩa khác. Nó có nghĩa là những kẻ không phải là ưu tú ở Việt Nam được toàn quyền cai trị nhân dân Việt Nam mà không phải vấp phải sự can thiệp nào từ bên ngoài. Dân Việt Nam được "tự do" và chữ "tự do" này cũng không có nghĩa là mọi người dân Việt Nam được tự do làm bất cứ việc gì miễn là không có hại cho ai. Mà chữ "tự do" phải được hiểu là một số những kẻ không hay ho gì của Việt Nam được tự do làm bất cứ điều gì mà họ muốn, kể cả những việc có hại cho người khác. Vậy không thể nói là Việt nam không được gì. Chỉ có thể nói là những người bình thường ở Việt Nam không được gì, ngoài những khẩu hiệu. Còn những người không hay ho ở Việt Nam thì được tất cả. Được vinh dự của kẻ thắng, được độc quyền cai trị và đàn áp dân chúng, được độc quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên... Nhưng cái giá phải trả cho những người lương thiện cho cái không có gì của họ và cái tất cả của những kẻ kia là tính mạng của con cái họ (những người đã chết trong chiến tranh), là tự do của họ bị tước bỏ, là quyền làm người của họ bị mất, là tương lai của họ bị vùi dập. Họ là ai? Họ là những người Việt nam bình thường. Minh, Hungary Thế mạnh của họ là được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, tài liệu khác nhau.Và do đó, cách đánh giá của họ tỏ ra nghiêm túc điềm tĩnh, khá khách quan, đa phương nhiều chiều. Hồi học phổ thông, Lịch sử là một trong các môn học yêu thích nhất của tôi. Cho đến bây giờ cũng vậy, niềm say mê của tôi là được đọc nhữn bài viết, những công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, được xem những bộ phim tài liệu về các cuộc chiến tranh đã xảy ra trên đất nước Việt Nam. |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||