![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Phóng viên Hoàng Dương về Huế | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
30 năm sau cuộc chiến, mảnh đất Huế, nơi chịu nhiều khốc liệt của chiến tranh, bây giờ phát triển ra sao? Tôi về Huế vào đúng lúc thành phố đang có hội thảo bàn về chuyện xây dựng trên đồi Vọng Cảnh, vốn là chủ đề được báo chí trong nước đăng tải nhiều và cũng được người dân tại thành phố quan tâm bàn tán. Theo chính những người xứ Huế, như nhà văn Tô Nhuận Vỹ, nhận xét, vấn đề làm sao bảo tồn di tích mà vẫn đảm bảo phát triển cũng là một trong những lý do làm cho Huế thay đổi chậm, dân vẫn nghèo. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ nói so chung với cả nước thì Huế vẫn "còn cái e: e nghèo, e trầm buồn"; và mang tiếng "cả nước yêu thương ôm Huế vào lòng" (lời bài hát của nhạc sĩ Trương Tuyết Mai) nhưng khi xếp hạng, Huế vẫn không đạt các tiêu chí để được xếp là thành phố loại 1 ở Việt Nam. 30 năm sau cuộc chiến, Huế ở thế kỷ 21 vẫn giữ nguyên vẻ nho nhã, trầm buồn và tư lự như thơ văn nhạc hoạ thường ca ngợi.
Những di tích như chùa Thiên Mụ, Đại Nội… vẫn thanh bình, cổ kính; và nếu từ những thành phố lớn về Huế, có cảm giác nhịp sống bỗng dưng chậm lại thật nhiều. Các địa danh gắn với cuộc chiến ngày trước tại Huế giờ đây có vẻ đều chú tâm tới vấn đề phát triển, tập trung nhiều vào kinh tế và du lịch. Những người dân Huế mà tôi gặp vẫn canh cánh nỗi lo cơm áo, với những bươn chải của cuộc sống thường nhật. Trò chuyện với bà con tiểu thương tại chợ Đông Ba, một số người cho tôi biết tình hình đời sống, buôn bán ngày nay so với thời trước chiến tranh đã khá hơn nhiều; thế nhưng cũng có nhiều người lại cho rằng kể từ sau chiến tranh, họ phải đóng thêm nhiều loại thuế má, làm ăn vẫn cực khổ như xưa. A Lưới Những tàn tích của cuộc chiến cách đây hơn 30 năm tưởng đã lắng sâu, thế nhưng thực ra vẫn còn đó. Người dân địa phương vẫn hay nhắc tới hậu quả của chiến tranh.
A Lưới là một trong những khu vực hứng chịu nhiều chất diệt lá màu da cam, Agent Orange, mà quân đội Hoa Kỳ thả xuống trong thời gian chiến tranh. Ngày nay, theo báo cáo của huyện, có tới hơn bốn ngàn người bị cho là nạn nhân của chất da cam. A Lưới hiện vẫn là một huyện nghèo, tuy sống dựa vào nông nghiệp nhưng diện tích đất canh tác nông nghiệp lại rất ít. Dọc đường đi tại A Lưới, đập vào mắt tôi là những căn nhà xiêu vẹo, tranh tre nứa lá của bà con người dân tộc. Tôi được chính quyền địa phương dẫn tới thăm một số gia đình nạn nhân chất da cam tại xã A Ngo; họ đa phần sống trong điều kiện rất nghèo. Những gia đình tôi đến thăm cho biết họ được chính quyền trợ cấp mỗi tháng từ 50-80 ngàn đồng, tuỳ thuộc tình trạng nặng nhẹ của nạn nhân chất da cam trong nhà. Nhiều người tại đây cho biết họ rất quan tâm theo dõi vụ kiện của Hội nạn nhân chất độc da cam tại Mỹ khi đó đang diễn ra, và họ tỏ ra thất vọng khi biết Mỹ bác bỏ đơn kiện của phía Việt Nam. Chị Hoài Thu, có hai người em bị cho là nhiễm chất da cam, nói Mỹ phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với những hành động của họ trong chiến tranh trước đây.
Bác sĩ Phạm Viết Nhân từ trường Đại học Y khoa của Huế đã từng thực hiện một nghiên cứu so sánh giữa các vùng bị rải chất da cam với các vùng không bị rải, và ông cho biết kết quả cho thấy tỉ lệ trẻ em bị dị tật tại những vùng bị rải cao hơn nhiều. Tuy nhiên ông cho biết quan tâm chính của ông bây giờ không phải chuyện chứng minh những ai là nạn nhân chất da cam, mà là làm sao phải giúp các trẻ em dị tật trước khi quá muộn. Văn nghệ sĩ và cuộc chiến Huế có lực lượng văn nghệ sĩ đông đảo, đứng thứ ba trong cả nước. Đội ngũ các văn nghệ sĩ từng sáng tác trong chiến tranh được biết vẫn còn nhiều. Hoạ sĩ Đặng Mậu Tựu, phó chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế, cho tôi biết rất nhiều anh chị em nghệ sĩ cảm thấy vẫn chưa thể nào trả hết "món nợ chiến tranh", và họ vẫn tiếp tục theo đuổi đề tài này.
Tuy nhiên, như nhà văn Tô Nhuận Vỹ nhận xét, chính cá nhân ông thấy khó có thể tìm lại được những cảm hứng, sức sáng tạo về chiến tranh tràn đầy, "hừng hực" như ngày nào. Đây cũng là một thực trạng chung cho giới văn nghệ sĩ tại Huế nói riêng và tại Việt Nam nói chung. Điều trăn trở lớn hơn là họ không có những tác phẩm thật hay, thật giá trị. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ nói nguyên nhân là do còn thiếu tài năng. Hoạ sĩ Đặng Mậu Tựu thì nhận định các văn nghệ sĩ tại Huế vẫn còn bị ghì chặt bởi gánh nặng kinh tế, cơm áo gạo tiền, nên chưa hẳn tất cả đã hoàn toàn hi sinh hết mình vì nghệ thuật. Hoạ sĩ Mậu Tựu ví von với tôi rằng người nghệ sĩ ngày nay giống như con trâu, mặc dù đã được cởi trói, được tự do những vẫn chỉ biết dậm chân quanh cái cọc cũ. Tâm thì có đấy, nhưng "tầm" thì còn chưa thấy đâu. Rời Huế, rời miền Trung, đọng lại trong tôi là những bươn chải mưu sinh nhọc nhằn của người dân, gánh nặng của nhiều hậu quả chiến tranh, và những trăn trở, loay hoay, tìm tòi hướng đi của giới văn nghệ sĩ cũng như của những ai nặng lòng với sự phát triển của nơi đây. ------------------------------------------------ TH Trần Thăng, HCMC, Vietnam Lu Chim Cu, Stanton, US Nguyễn Huy, Sài Gòn, Việt Nam Nguyen Hoat Dang, Houston, USA | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||