http://www.bbcvietnamese.com

23 Tháng 4 2005 - Cập nhật 20h54 GMT

Phần ba: Khía cạnh ngoại giao trong chiến tranh VN

Tuần rồi, phần hai trong bài viết của tác giả William Duiker nói về khía cạnh ngoại giao trong chiến tranh ở Việt Nam đã dừng lại ở thời điểm sau Tết Mậu thân 1968.

Phần ba và cũng là phần cuối này tiếp tục câu chuyện của năm 1968.

Trận Mậu Thân đem lại kết quả lẫn lộn. Lực lượng Việt Cộng chịu tổn thất nặng nề và không lật đổ được chế độ Sài Gòn.

Nhưng chiến dịch đã có tác động lớn đến dư luận tại Mỹ vốn trước đó ủng hộ chiến tranh, và thuyết phục được nhiều viên chức Mỹ rằng họ không thể giành chiến thắng với một cái giá chấp nhận được.

Nhà Trắng sau đó miễn cưỡng quyết định gia tăng nỗ lực để có đàm phán hòa bình.

Đột phá đầu tiên diễn ra vào đầu tháng Tư 1968, khi Hà Nội đồng ý mở thảo luận với các đại diện Mỹ nhằm tìm thỏa thuận cho việc Mỹ dừng ném bom vô điều kiện. Đây được xem là phương thức đem lại vòng đàm phán đầu tiên.

Quyết định của Hà Nội lập tức gây ra vấn đề với Trung Quốc, nước mà trong ba năm qua đã cảnh báo Hà Nội không được bỏ đi tuyên bố Bốn Điểm như tiền đề cần thiết trước khi tham gia đàm phán.

Trong cuộc gặp ông Phạm Văn Đồng trong tháng Tư, ông Chu Ân Lai chỉ trích VN vì muốn có sự ngừng đánh bom tạm thời. Ông gọi điều này sẽ khiến lực lượng cách mạng ở miền Nam mất đi chủ động.

Ông Đồng phản bác lại là Hà Nội chỉ muốn dùng ngoại giao để vận động dư luận thế giới chống lại Mỹ và buộc Washington phải nhượng bộ.

Khi Chu nói Trung Quốc có nhiều kinh nghiệm giao thiệp với Mỹ hơn, ông Đồng nói lời cảm ơn nhưng cũng nói thêm “chúng tôi là người đang chiến đấu chống Mỹ và đánh bại họ.” Ông kết luận vì thế Hà Nội chịu trách nhiệm cho việc thực hiện các hoạt động ngoại giao và quân sự.

Đến mùa thu, TQ nhắc lại sự chỉ trích khi Hà Nội đồng ý mở thảo luận với Mỹ, Mặt trận dân tộc giải phóng và chính quyền Sài Gòn tại Paris.

Tuy vậy đến lúc này quan hệ Trung – Việt đã ngày càng căng thẳng. Các viên chức Bắc Việt nói thẳng ra là Hà Nội đã từng phạm sai lầm khi nghe theo lời khuyên của TQ tại Geneva 1954.

Kết quả là Mao Trạch Đông đành tán thành với chiến lược vừa đánh vừa đàm của Hà Nội.

Trên thực tế, Bắc Việt tiếp tục dùng đàm phán ở Paris chủ yếu như một diễn đàn để vận động dư luận, trong lúc đồng thời tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang trong miền Nam.

Tháng Chín 1970, ông Phạm Văn Đồng nói với Chu Ân Lai rằng Bắc Việt không có ảo tưởng về một giải quyết ngoại giao tại thời điểm này vì Washington vẫn đang tìm kiếm chiến thắng trên chiến trường.

Lúc này các điều kiện mà Hà Nội đặt ra tại đàm phán là: thiết lập thời biểu cho việc Mỹ rút quân hoàn toàn, phế bỏ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu trước khi thành lập một chính phủ liên hiệp.

Ông Phạm Văn Đồng nói những điều kiện không nhằm để xem xét nghiêm túc mà chỉ để dồn Mỹ vào thế bí và vận động dư luận có cảm tình với phong trào cách mạng ở miền Nam và trên thế giới.
Ông nhấn mạnh cuộc đấu tranh ngoại giao đóng vai trò hữu ích đồng thời cùng nỗ lực quân sự trên chiến trường.

Cú sốc Nixon

Nhưng đến đầu thập niên 1970, Hà Nội đột nhiên chứng kiến một thực tế mới không dễ chịu khi Trung Quốc quyết định nối lại tình thân với Mỹ.

Đối với các lãnh đạo ở Hà Nội, đây là cú đánh vào chiến lược của họ, do chiến lược này dựa trên tiền đề là sự thù địch Trung – Mỹ là yếu tố cố định trên chính trường thế giới. Giờ đây Bắc Việt đối diện khả năng là Trung Quốc sẽ hùa theo Mỹ để tước bỏ những thành tựu cách mạng của Bắc Việt.

Trung Quốc thì nhấn mạnh quan hệ cải thiện Trung – Mỹ có thể có lợi cho sự thống nhất Việt Nam vì khi đó, Mỹ sẽ giảm bớt lo ngại về sự bành trướng cộng sản ở Đông Nam Á và sẽ tập trung vào các khu vực khác.

Nhưng Hà Nội không chia sẻ quan điểm này.

Lo ngại của Hà Nội có vẻ được chứng thực phần nào khi Trung Quốc sau đó tin rằng Washington đang định tìm một sự rút lui trong danh dự ra khỏi Đông Dương. Giờ đây Bắc Việt tập trung nỗ lực cho hy vọng mở một đợt tổng tấn công mới tại miền Nam. Nếu thành công, nó có thể bào mòn uy tín chính quyền Sài Gòn và buộc Mỹ có thêm nhượng bộ trong hòa đàm.

Đợt tổng tấn công cuối tháng Ba 1972 thể hiện ưu thế của lực lượng Bắc Việt trước quân đội miền Nam – lúc này chiến đấu mà không có sự hỗ trợ của bộ binh Mỹ. Tuy vậy, các đợt không kích của Mỹ đã giúp phản pháo và chính quyền Sài Gòn vẫn tồn tại.

Trong mấy tháng kế tiếp, các nhà lãnh đạo Bắc Việt đánh giá tình hình dựa trên thực tế mới. Vào tháng Bảy 1972, ông Chu Ân Lai khuyên ông Lê Đức Thọ hãy mềm dẻo hơn trong hòa đàm và nếu cần thì thừa nhận Nguyễn Văn Thiệu như một thành viên tiềm năng trong một liên minh tay ba tương lai.

Ông Thọ tỏ ra ngờ vực, vì đối thủ chính của Nixon trong chiến dịch tranh cử tổng thống 1972, nghị sĩ Dân chủ George McGovern, đang vận động dựa trên cương lĩnh sẽ rút quân Mỹ ngay tức khắc ra khỏi miền Nam.

Nhưng đến đầu mùa thu, tình thế cho thấy rõ là thượng nghị sĩ McGovern sẽ chịu thất bại trong bầu cử, trong lúc Nixon đe dọa gia tăng sức ép quân sự của Mỹ ở VN sau bầu cử nếu không đạt được thỏa thuận hòa bình.

Ngày 8-10, ông Lê Đức Thọ từ bỏ việc yêu cầu Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Thay vào đó, ông chấp nhận kế hoạch kêu gọi một ‘sự ngừng bắn có hiệu lực’ và việc công nhận hai thực thể hành chính ở miền Nam – chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và chính phủ cách mạng lâm thời.

Một hiệp định cuối cùng được ký ở Paris tháng Giêng 1973.

Đối với nhiều thành viên Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, thỏa thuận Paris nhắc họ nhớ về sự phản bội ở Geneva 1954, và các lãnh đạo Bắc Việt đã phải nỗ lực bảo đảm với họ rằng mục tiêu thống nhất chưa bị lãng quên.

Nhưng trên thực tế, có vẻ Hà Nội không cảm thấy nhu cầu cấp thiết phải hoàn tất việc thống nhất. Giờ đây khi quân Mỹ đã rút, các lãnh đạo Bắc Việt tin rằng chiến thắng chỉ là vấn đề thời gian.

Trong hội đàm ở Bắc Kinh tháng Sáu, Chu Ân Lai nói: “trong năm, mười năm kế tiếp, Nam Việt Nam, Lào và Campuchia cần xây dựng hòa bình, độc lập và trung lập.” Ông Lê Duẩn có vẻ đồng ý, nói rằng Bắc Việt không vội vã trong vấn đề đưa chính quyền miền Nam thành chính quyền XHCN và nhắc tới khả năng 10 – 15 năm.

Cuối cùng thực tế là đã không lâu đến như vậy. Khi chính quyền Thiệu không thực hiện các điều khoản hiệp định Paris và tấn công các khu vực do đối phương kiểm soát ở miền Nam, Bắc Việt thay đổi kế hoạch và mở tổng tấn công đầu năm 1975.

Quyết định gây ra một vài lo ngại ở Bắc Kinh và Moscow, nhưng khi Washington không phản ứng, sự kháng cự ở miền Nam nhanh chóng suy sụp và Sài Gòn thất thủ ngày 30-4. Việc thống nhất diễn ra một năm sau đó và chính thể mới soạn ra kế hoạch chuyển hóa XHCN trên toàn quốc vào cuối thập niên.

Kết luận

Sau 1975, các nguồn chính thức ở Hà Nội quy chiến thắng là nhờ các yếu tố: sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, tinh thần yêu nước của nhân dân, và thiên tài chiến lược của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Ít có sự nhắc tới vai trò của ngoại giao hay sự viện trợ của các đồng minh của Hà Nội. Các lãnh đạo Việt Nam, khi bước vào sự tranh chấp gay gắt với Trung Quốc, liên tục giảm nhẹ sự hỗ trợ mà họ đã nhận từ bên ngoài. Sự giúp đỡ của Bắc Kinh giờ đây bị mô tả như là nhằm phục vụ mục tiêu ích kỷ của Trung Quốc.

Tuy vậy, ngoại giao thực ra là vũ khí quan trọng cho đảng trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Các lãnh đạo Việt Nam đã khéo léo tận dụng mâu thuẫn Trung – Xô để nhận sự giúp đỡ từ cả hai nước. Họ cũng biết cách thực hiện việc hòa đàm theo hướng tạo ra ấn tượng trước công luận là Hà Nội rất uyển chuyển, trong khi trên thực tế không bước vào đàm phán thật sự cho đến một thời điểm do tự họ quyết định.

Dĩ nhiên, Hà Nội đã có nhiều nhượng bộ đáng kể để có hiệp định Paris 1973. Nhưng đối với các nhà chiến lược Việt Nam, nhượng bộ tại Paris không có tính thực tế vì họ nhận thức rằng một khi Mỹ đã rút khỏi miền Nam, chính quyền Sài Gòn không phải là đối trọng với miền Bắc.

Bắc Việt có vẻ đã nghĩ rằng sẽ còn mất một khoảng thời gian trước khi có chiến thắng cuối cùng, và sẵn lòng chấp nhận một thỏa hiệp về một chính phủ liên hiệp mà phía Mặt trận miền Nam sẽ giữ ưu thế. Nhưng việc Nixon từ chức tháng Tám 1974 đã đem lại một tình thế mới.