![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() |
![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Chủ nghĩa vùng theo cách hiểu từ Úc châu
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Quan điểm của Keith Taylor đăng tải trên trang diễn đàn của BBC đã tạo ra một vài tranh luận xung quanh “chủ thuyết vùng”.
Bài này nhằm giới thiệu thêm một số thông tin giúp độc giả mở rộng diễn đàn tranh luận. Trước hết, khi nói đến “chủ thuyết vùng”, Taylor đã mặc nhiên xếp mình vào nhóm các nhà khoa học coi dân tộc và chủ nghĩa dân tộc chỉ là sản phẩm của thời hiện đại, tức trong khoảng thế kỷ 19 và 20. Tiên đề về chủ nghĩa dân tộc Trong giới nghiên cứu từ các trường đại học Úc châu tồn tại một quan niệm phổ biến, cho rằng ý thức về dân tộc được du nhập từ phương Tây vào Ðông Nam Á qua mối quan hệ thuộc địa. Robert Gribb đã trình bày quan điểm tương tự tại Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia trong phiên hội thảo ASEAN tổ chức tại Hà Nội năm 1999. Như vậy về cơ bản, khi tranh luận về việc có tồn tại “chủ nghĩa vùng” trong lịch sử Việt Nam hay không, chúng ta đã phải chấp nhận tiên đề cho rằng trước thế kỷ 19 không tồn tại cái gọi là dân tộc hay tư tưởng dân tộc Việt Nam. Theo giới khoa học phương Tây thì trước khi trở thành quốc gia dân tộc sau Cách mạng Pháp, các thể chế châu Ấu chỉ là những cơ cấu phong kiến không có biên giới phân định rõ ràng bằng đường kẻ trên bản đồ. Mô hình đó được không ít sử gia châu Âu đem sang áp dụng cho vùng châu Á nhưng hiện bị nhóm giáo sư ở Úc châu bác bỏ. Mandala Trưởng khoa sử đại học Queensland Martin Stuart-Fox được coi là người duy trì lối giải thích giáo khoa về hệ thống mandala và negara. Sinh viên ngành sử và xã hội học Ðông nam Á của Úc hiểu đây là thể chế chính trị đặc trưng của vùng Ðông nam Á, được ghi nhận ở Phù Nam từ năm 250, hay sau đó là Chân Lạp, Chăm Pa và cả ở các chế độ đã dựng lên Angkor (Campuchia), Borobudur (Indonesia) và Pagan (Miến Ðiện). Gốc gác của mandala là từ Ấn Ðộ, có nghĩa nguyên là hà đồ bốn phương tám hướng, hay là mối dây quan hệ bao quanh quốc vương. Negara tức là thị trấn làm chủ cả một vùng xung quanh. Như vậy có thể dễ dàng mô tả chế độ phong kiến Ðông nam Á dựa trên các thành quách địa phương trấn giữ cả một vùng đất xung quanh, liên kết với nhau qua mối quan hệ huyết thống hay hôn nhân. Theo đó vùng đất của vị lãnh tụ địa phương có nhiều ảnh hưởng nhất trong “đại gia đình” sẽ được coi là thủ đô. Trung tâm quyền lực sẽ thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào mối quan hệ giữa các lãnh đạo vùng và những cuộc hôn nhân quyền lực. Mô hình này được giới thương gia Trung Quốc ghi nhận trong nhật ký hàng hải sau các chuyến tàu buôn. Giữa Ấn Độ và Trung Quốc Ở Trung Quốc, quốc gia được quản lý chủ yếu bằng hệ thống quan lại được hình thành qua khoa cử, tạm gọi là mô hình Khổng Tử. Quan hệ gia đình bị đẩy xuống hàng thứ hai sau quan hệ vua-tôi. Hai mô hình Trung Quốc và Ấn Ðộ chắc chắn không xa lạ với các triều vua Việt trong giai đoạn độc lập giữa thế kỷ 11 và 19. Các vị sư Ấn Ðộ từng đến chùa Tây Phương từ rất sớm. Vua Trần từng có thời gian sống trong vùng của người Chăm và mối quan hệ hôn nhân với vua Chăm được ghi nhận qua đám cưới công chúa Huyền Trân. Theo Stuart-Fox thì nếu muốn áp dụng mô hình Trung Quốc cần phải học tiếng Hán và thiết lập một hệ thống giống hệt như vậy. Việc này không dễ làm vì cần phải có thời gian đào tạo một lớp người “thông kinh sử”. Nhóm sử gia Úc Tiếp nữa do tiền đề cơ bản của hệ thống Trung Quốc cho rằng vua là thiên tử cho nên vua Việt Nam không thể là một thiên tử mới được, phải nhận làm chư hầu phương Bắc. Dù lịch sử có ghi nhận nhưng điều này có lẽ không dễ được quần chúng chấp nhận, nếu họ từng trải qua một thời gian dài chiến đấu chống lại phương Bắc. Trong khi đó mô hình mandala lại lỏng lẻo và dễ dàng biến chế cho phù hợp. Trước hết các vị lãnh tụ vùng được coi là ngang nhau và việc ai sẽ có nhiều quyền lực hơn sẽ do thực lực và mối quan hệ quyết định. Thứ hai, ai muốn lên làm vua không cần phải học tiếng và luật nước ngoài mà chỉ cần tổ chức đám cưới hoặc nhận vua chư hầu làm con nuôi. Ở đây Keith Taylor không vượt ra khỏi quan điểm của giới sử gia Úc. Ông được đồng nghiệp ghi nhận như là một người đã chỉ ra rằng Việt Nam thời triều Lý (thế kỷ 11) có khác với các mô hình mandala truyền thống, do áp dụng trộn lẫn với mô hình Trung Quốc. Trong thời này các vùng đất chiếm được của Chăm Pa được Việt Nam hóa bằng cách đặt tên mới và cử quan trung ương về cai quản. Tuy nhiên ở các nơi di dân gốc Việt không đủ đông thì phương pháp này thất bại, như vụ sáp nhập vùng Cánh đồng Chum của Lào. Theo ghi nhận của Taylor, các vương triều Việt phải tuân thủ luật chơi của vùng, tức là đi theo mối quan hệ mandala, dù quan hệ với Trung Quốc vẫn theo thể chế Khổng tử. Cách phân tích của ông cho thấy lịch sử Việt Nam dù có ghi nhận hệ thống khoa cử nhưng vẫn là quá trình tranh giành quyền lực giữa các lãnh chúa. Nhìn lại lịch sử Việt Nam còn có thể thấy quá trình chuyển giao quyền lực giữa các triều đại rất thường liên quan đến những cuộc hôn nhân trong hoàng tộc. Tham khảo: Nguyễn Huy Thông et al. (Robert Gribb) 1999, Xây dựng ASEAN thành cộng đồng các quốc gia phát triển bền vững, đồng đều và hợp tác, TT Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Colin Mackerras et al. (Martin Stuart-Fox) 1993, 1995, 2000, Eastern Asia: an introductory history, Longman. Keith Taylor 1986, Authority and legitimacy in 11th century Vietnam, Singapore. |
Diễn đàn BBC
CÁC BÀI LIÊN QUAN
![]() 22 Tháng 2, 2005 | Trang chủ
TRANG NGOÀI BBC
BBC không chịu trách nhiệm về nội dung các trang bên ngoài.
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||