27 Tháng 2 2006 - Cập nhật 09h30 GMT
Trong đầu thập niên 1980, trong lúc Trung Quốc tập trung phát triển kinh tế, quân đội không được xem là ưu tiên. Ngân sách quốc phòng giảm từ 17.5% năm 1979 còn 10.4% năm 1985.
Lúc này cách tốt nhất để giải quyết việc thiếu ngân sách được cho là hãy để quân đội tự thân vận động.
Quân đội có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ có thể tự sống và sản xuất cả cho thị trường dân sự, tham gia ngoại thương, tăng doanh thu.
Khó ai lúc đó nghĩ rằng các chính sách mới sẽ có tác động sâu sắc thế nào đến quan hệ của quân đội với Đảng và xã hội Trung Quốc.
Các trang trại của quân đội lúc này bắt đầu bán sản phẩm cho thị trường nông nghiệp mới phát triển. Mạng lưới khách sạn trước chỉ dành cho khách nội bộ thì nay đón nhận cơ hội từ công nghiệp du lịch. Các nhà máy may quân phục nay làm cả quần áo gia dụng.
Bất động sản cũng ăn nên làm ra vì quân đội kiểm soát nhiều đất đai. Quân đội cũng tiến vào lĩnh vực viễn thông, và không lực Quân đội Nhân dân Trung Quốc thậm chí sở hữu một hãng máy bay.
Có thời điểm tồn tại đến hơn 20.000 doanh nghiệp của quân đội, thuê mướn nhiều triệu lao động. Mặc dù không phải công ty nào cũng làm ăn được, nhưng nói chung đa số sản xuất đủ để trở thành một tài sản quý cho đơn vị phụ trách họ.
Tuy nhiên, về lâu dài, các hoạt động kinh tế của quân đội chứng tỏ nhiều vấn đề. Trong thập niên 1980 và 1990, hơn 20 người từ cấp thiếu tướng trở lên đã trốn ra nước ngoài để tránh buộc tội về biển thủ. Nhiều đơn vị ở các vùng ven biển thì tham gia các hoạt động phi pháp như buôn lậu.
Ngoài vấn đề tham nhũng, hoạt động kinh tế cũng ảnh hưởng xấu đến sự tinh nhuệ của quân đội. Hoạt động đào tạo kém sút vì nhiều sĩ quan dành thời gian để kinh doanh hơn là làm nhiệm vụ quân sự. Việc quá chủ tâm mở rộng kinh doanh và lợi nhuận làm suy yếu kỷ luật và quyền lực của trung ương.
Sự thống nhất trong quân ngũ bị đe dọa vì các đơn vị kinh tế của quân đội trực tiếp cạnh tranh với nhau. Các vấn đề khác cũng xảy ra do sự phân bổ lợi nhuận không đều giữa các đơn vị, ví dụ có sự khác biệt giữa đơn vị đóng ở Thẩm Quyến và ở Hắc Long Giang.
Quan hệ quân – dân cũng bị tổn hại. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các đơn vị quân đội hưởng nhiều lợi thế hơn các công ty dân sự, chẳng hạn mức thuế quân đội chịu thì thấp hơn với lý do giúp đóng góp cho ngân sách quốc phòng.
Kết quả, trong mắt Đảng Cộng sản Trung Quốc, những khía cạnh tiêu cực vượt qua mọi lợi ích mà Trung Quốc có được từ kinh tế quân đội.
Đóng cửa
Sau nhiều năm tìm cách cải tiến hệ thống thông qua kiểm toán, đóng bớt công ty, tái cơ cấu, ra quy định mới, đến năm 1998, Đảng ra quyết định buộc quân đội chuyển giao phần lớn các doanh nghiệp.
Những gì còn lại ở quân đội chủ yếu là nông trại và những hỗ trợ hậu cần cơ bản, mặc dù họ được phép giữ lại một số khách sạn và các đầu tư lớn như trong ngành viễn thông.
Ước tính ít nhất 6000 doanh nghiệp được chuyển ra khỏi sự kiểm soát của quân đội, từ tổng số 10.000.
Theo phân tích của Thomas J. Bickford, viết trong một chương của quyển Chinese Civil-Military Relations (do Nan Li chủ biên, 2006), sự chấm dứt của ‘tập đoàn kinh tế quân đội’ có thể được hiểu như một phần của mối liên minh giữa nhóm cải cách trong quân đội với giới lãnh đạo dân sự.
Mặc dù một số thành viên quân đội phản đối quyết định thu hẹp hoạt động kinh tế, nhưng chính nhiều sĩ quan lại hoan nghênh quyết định vì xem đây là cơ hội để tăng cường tính thiện chiến của binh sĩ.
Một điểm đáng chú ý khác, theo Thomas J. Bickford, là sau khi đã bỏ bớt hoạt động kinh tế, nay quân đội Trung Quốc phụ thuốc nhiều hơn vào nhà nước về ngân sách. Điều này, cộng với chính sách chuyên nghiệp hóa quân đội, có thể đưa quân đội Trung Quốc về hướng trở thành quân đội của nhà nước, chứ không phải của đảng.