18 Tháng 11 2008 - Cập nhật 14h12 GMT
Các công ty tại hai tỉnh Sơn Đông và Hồ Bắc của Trung Quốc được lệnh phải xin sự chuẩn thuận chính thức nếu muốn đuổi việc từ hơn 40 người.
Lệnh này cho thấy sự quan ngại của giới chức Trung Quốc trước tình trạng mất công ăn việc làm.
Trong lúc các thị trường hải ngoại lớn của Trung Quốc đang rơi vào cảnh suy thoái và đơn đặt hàng giảm đi, tình trạng mất việc làm gia tăng theo cấp số nhân tại các khu vực sản xuất lớn của Trung Quốc.
Riêng tại tỉnh Sơn Đông, gần 700 ngàn người mất việc trong năm nay.
Tại tỉnh Quảng Đông ở miền nam, hàng chục ngàn công ty phải đóng cửa, tạo ra làn sóng lao động di cư về nông thôn.
Mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã giảm mạnh trong năm nay, xuống khoảng 8% - tuy vẫn cao so với thế giới nhưng đã sụt giảm nhiều so với mức tăng trưởng hai chữ số trong nhiều năm.
Nếu không tính đến tình hình cải thiện nhờ sự kiện Olympics thì con số này có thể còn sụt giảm nữa.
Giảm lương
Chỉ số sản xuất của Trung Quốc giảm mạnh vào tháng Mười, vào lúc các nhà máy nước này thông thường phải gia tăng sản xuất để phục vụ các thị trường phương Tây trong thời gian trước Giáng sinh.
Giới chức Trung Quốc muốn tránh tình trạng này, vì cho rằng nó sẽ tạo ra các bất ổn về xã hội và chính trị.
Các biện pháp kiểm soát nguồn nhân lực tại Sơn Đông và Hồ Bắc là nỗ lực đặt ra các rào cản quan liêu để ngăn chuyện cắt giảm việc làm.
Tuy nhiên, cũng chưa rõ liệu biện pháp này hữu hiệu đến đâu.
Truyền thông TQ trích lời giám đốc một nhà máy ở Sơn Đông nói: “Các nhà máy không nhận được đủ đơn đặt hàng, do đó một số công nhân không có việc gì làm.
“Tôi đã nghĩ đến việc sa thải công nhân để giảm giá thành. Thế nhưng nếu chính phủ không đồng ý với kế hoạch cắt giảm việc làm của tôi thì tôi biết làm gì đây? Tôi không thể trả tiền cho tất cả số công nhân này”.
Một biện pháp khác có thể là cắt giảm mạnh lương trả cho công nhân.
Tại một nhà máy ở Quảng Đông, lương của công nhân bị giảm tới 75%.
Mặc dù mức lương như thế là không thể sống nổi đối với đa phần công nhân Trung Quốc, họ vẫn phải chờ đợi cho tới khi nào tình hình kinh tế cải thiện hơn tại các thị trường nước ngoài của TQ.
Cuộc khủng hoảng này cho thấy mức độ phụ thuộc của Trung Quốc với thế giới bên ngoài, và là một sự khác biệt rất rõ so với khẩu hiệu tự cung tự cấp thời Mao Trạch Đông.