08 Tháng 3 2006 - Cập nhật 13h07 GMT
Phóng viên Aaron Glantz và Ngọc Nguyễn có bài phân tích về tình hình đình công ở Việt Nam. Bài viết cho CorpWatch, một tổ chức hoạt động vì nhân quyền, lao động và môi trường đặt tại San Francisco.
Gần năm giờ chiều và các công nhân nhà máy ở một trong những khu công nghiệp lớn nhất tại Việt Nam đổ về các con phố thuộc ngoại vi TP. HCM.
Những ai đã xong công việc trong ngày băng qua xa lộ nhộn nhịp để mua rau củ từ những người bán rong dọc con đường bụi bặm. Trong số đó có nhân viên của Danu Vina Corporation, những người có thu nhập dưới hai đôla cho một ngày làm những con thú mà sẽ được Hallmark, Disney và Starbucks bán ở Mỹ.
Vài tuần trước, nhiều người trong số này đã tham gia cùng nhiều ngàn công nhân để tạo nên làn sóng đình công phản đối lương thấp và điều kiện làm việc kém ở các khu chế xuất và khu công nghiệp tại miền Nam.
Những nhà máy có vốn nước ngoài này đã giúp thúc đẩy nền kinh tế. Nhưng đồng thời, vật giá leo thang, và mong chờ của những công nhân hy vọng được san sẻ chút nào trong cơn sốt phát triển cũng lại tăng.
”Đời sống mỗi ngày, cái gì cũng tăng giá,” Minh, công nhân làm đồ chơi ở Danu Vina từ hai năm qua, nói. Giống như các công nhân khác, anh không chịu cho biết tên đầy đủ vì sợ tai vạ từ công ty. “Mọi thứ, đồ ăn thức uống cái gì cũng mắc, và cuộc sống tụi tui khổ lắm. Chúng tôi đình công để có cuộc sống khá hơn.”
Hình thức đình công liều lĩnh ngày càng trở nên phổ biến với đòi hỏi nhà nước tăng mức lương tối thiểu tại các khu chế xuất. Trước tháng Giêng, khi 40.000 công nhân bỏ việc, mức lương tối thiểu đã không đổi suốt sáu năm trong lúc đồng tiền Việt Nam sụt 15% so với trị giá đôla Mỹ. Không mấy công ty nước ngoài lại trả lương cao hơn mức mà luật pháp yêu cầu.
”Chính phủ bị ngạc nhiên trước mức độ phẫn nộ của người lao động vì lương thấp,” Thuyên Nguyên, người phụ trách tổ chức Vietnam Labour Watch ở San Francisco, nói. “Còn những người dân này không chịu để bị bóc lột.”
Sau các vụ đình công, chính phủ đã tăng mức lương tối thiểu ở các nhà máy có vốn nước ngoài lên gần 40%. Tiền lương tháng tăng từ 40 đôla một tháng lên 55 đôla một tháng tại Hà Nội và TP. HCM, lên 50 đôla ở các thành phố cỡ vừa và 45 đôla ở các tỉnh còn lại. Việc tăng lương sẽ có hiệu lực từ 1-4.
Bộ trưởng Lao động Nguyễn Thị Hằng nói tại cuộc họp báo ngày 7-1 rằng chính phủ ấn định mức lương tối thiểu với mục tiêu bảo đảm an ninh xã hội phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Nhưng thông báo của nhà nước không có mấy tác dụng để giảm các vụ phản đối. Công nhân đã tổ chức các vụ đình công mới gần như mỗi ngày tại các nhà máy quanh TP. HCM. Công nhân trên toàn quốc thì đang đòi việc tăng lương có hiệu lực tức thời. Tại các xưởng thợ khác, nơi chủ lao động đã tăng lương, công nhân bảo họ không khá hơn trước, vì một số công ty lại cắt phụ cấp trong lúc đồng thời tăng lương.
Thuyên Nguyên nói các vấn đề nền tảng dẫn đến đình công vẫn chưa được giải quyết, vì chính phủ phải cố chiều theo yêu cầu của cả người lao động lẫn nhà đầu tư nước ngoài.
”Thất nghiệp là vấn đề lớn, vì thế chính phủ muốn tạo ra công ăn việc làm. Chính phủ cố gắng xoa dịu các công ty. Thế là công nhân không hài lòng vì lương họ quá thấp. Chính phủ chỉ nghĩ ngắn hạn mà không có kế hoạch dài hạn.”
Nguyên nói sự cố gắng cân bằng của chính phủ ngày càng kém hiệu quả trong lúc công nhân ngày càng phẫn nộ. Ví dụ, sáu tháng trước lúc phát sinh các vụ đình công hàng loạt ở TP. HCM, thì 10.000 công nhân đã có cuộc đình công bất hợp pháp tại nhà máy của KeyHinge ở Đà Nẵng. Các công nhân, những người làm đồ chơi cho McDonald, nói với báo Lao Động rằng nếu họ không làm liên tục 12 tiếng mỗi ngày không có phụ cấp, thì họ sẽ bị đuổi việc.
Gần như ngay lập tức Đảng bộ địa phương đã can thiệp, tìm ra “thỏa hiệp” và lệnh cho công nhân quay trở lại làm việc, với lời hứa sẽ làm từ 8 đến 10 giờ mỗi ngày, và lương theo giờ tăng từ 1.5 đến 17.5%.
Tại trụ sở của McDonald ở Oak Brook, Illinois, Anna Rozenich khi đó nói với hãng AP: “Mọi vấn đề đã được giải quyết.”
Thuyên Nguyên không lạc quan như thế. “Chính phủ sẽ cố gắng tiếp tục xoa dịu mọi phía,” ông nói, “nhưng tôi không biết mức độ hiệu quả của nó.”
Khó khăn
Những ai liên quan đều biết nếu nhu cầu lao động rẻ và giá thành sản xuất thấp của các công ty nước ngoài không được đáp ứng, họ sẽ rời Việt Nam. Và một số nhà máy bị ảnh hưởng vì bất ổn đã ra đe dọa như thế.
Việt Nam không chỉ phải giữ các việc làm hiện tại mà còn phải thu hút việc mới cho khu vực xuất khẩu. Chính phủ đang “cố dung hòa quyền lợi của các công dân làm ở nhà máy với quyền lợi nhà đầu tư nước ngoài,” Carey Zesiger, người theo dõi điều kiện lao động ở các nhà máy xuất khẩu ở Việt Nam cho công ty tư vấn Global Standard.
”Trung Quốc có lương thấp; Việt Nam phải giữ lương thấp tương đương để có thể cạnh tranh,” Zesiger nói. Nhưng lương tối thiểu ở Trung Quốc là 63 đôla một tháng, cao hơn 13% so với mức mới ở Việt Nam và lương thấp vẫn là yếu tố chính thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn tỏ ra có sức cạnh tranh, và kể từ 1989 chỉ có Trung Quốc và Guinea, nhờ dầu hỏa, tăng trưởng nhanh hơn. Riêng trong năm 2005, kinh tế Việt Nam tăng 8.4%. Trong thập niên vừa qua, thu nhập tăng gần gấp đôi và tỉ lệ người nghèo giảm dưới mức 20%.
Nhưng để tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài, các viên chức chính phủ nói, Việt Nam phải cung cấp lực lượng lao động rẻ, ngoan ngoãn như đòi hỏi của nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng ít nhất trên giấy tờ, người lao động Việt Nam được bộ luật lao động thuộc hàng nghiêm ngặt nhất thế giới bảo vệ. Dưới chế độ Cộng sản, công nhân ở mọi nhà máy phải được công đoàn đại diện trong vòng vài tháng sau khi hoạt động.
Nhưng kể từ đợt sóng ra đời các công ty tư nhân vài năm trước, việc thực thi đã lỏng lẻo. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế, chỉ 10% công nhân ở khu vực xuất khẩu là có công đoàn đại diện. Các nhà quan sát không nhớ được đã có công ty nào bị trục xuất vì phạm luật. Vì thế đa số dự đoán mức lương thấp và gia tăng đình công sẽ còn tiếp tục.