BBCVietnamese.com

22 Tháng 3 2006 - Cập nhật 15h21 GMT

Sự ra đi của một Tổng Bí thư

Đại hội lần thứ Chín của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ 19 đến 22-4 năm 2001 với kết quả Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu bị hạ bệ, và ông Nông Đức Mạnh lên thay thế.

Vào đầu năm ấy, ông Lê Khả Phiêu đã chịu sự chỉ trích trong nội bộ đảng.

Tại hội nghị trung ương tháng Giêng, ban đầu có quyết định từ nay những ai quá tuổi 65 sẽ không được tái ứng cử. Quyết định này được nhiều người xem là nhắm vào ông Phiêu, người sinh năm 1931.

Tuy nhiên, sau đó vị Tổng Bí thư có cuộc phản kích để dẫn đến kết quả khi hội nghị kết thúc, lại có bổ sung là có ngoại lệ về tuổi tác đối với những "cán bộ chủ chốt".

Tháng Hai năm 2001, tại Tây Nguyên nổ ra những cuộc biểu tình của người dân tộc thiểu số.

Nhiều nhà quan sát dự đoán bất ổn tại đây sẽ làm tăng sự không hài lòng đối với Tổng Bí thư. Nhưng nhấn mạnh đến ưu tiên cho ổn định, ông Lê Khả Phiêu thuyết phục ban lãnh đạo rằng giữa lúc bất ổn, thì thay đổi lãnh đạo không phải là quyết định khôn ngoan.

Đến tháng Tư, Bộ Chính trị bỏ phiếu với tỉ lệ 12/6 đồng ý để ông Phiêu ở lại đến năm 2003.

Nhưng ngày 17-4, tại buổi họp của các đại biểu ngay trước lúc chính thức khai mạc Đại hội IX, Ban chấp hành trung ương đã đảo ngược quyết định của Bộ Chính trị và bỏ phiếu hạ bệ Tổng Bí thư.

Tranh đấu

Các nhà quan sát phương Tây đồng ý về một số lý do dẫn đến việc ông Lê Khả Phiêu phải ra đi.

Vị Tổng Bí thư, người được bầu lên năm 1997, bị cáo buộc là có tham vọng quá lớn. Lúc ấy có nhiều tường thuật nói rằng ông Phiêu muốn nắm cả hai vị trí Tổng Bí thư và Chủ tịch nước.

Có một số bài báo viết ông tỏ ra không vui khi trong chuyến thăm Pháp năm 2000, ông không được đối xử như nguyên thủ quốc gia.

Nhưng trong một hệ thống xem trọng sự lãnh đạo tập thể, bất kì cố gắng củng cố quyền lực nào của một cá nhân cũng bị xem là hành vi 'phản dân chủ'.

Một sai lầm khác của ông Phiêu là mặc dù ông giữ được danh tiếng là người trong sạch, nhưng ông lại chịu tai tiếng về hành vi bè phái, với việc bổ nhiệm quá nhiều người từ vùng quê Thanh Hóa.

Ông Lê Khả Phiêu cũng bị cáo buộc đã dùng tình báo quân đội để theo dõi các thành viên khác trong Bộ Chính trị.

Theo sau cáo buộc nghiêm trọng này, tại hội nghị trung ương lần thứ 11, Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà và Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Dũng đã bị khiển trách.

Có vẻ ông Lê Khả Phiêu đã hy vọng việc khiển trách các cá nhân dưới quyền đủ để ông có thể 'thoát nạn', nhưng vẫn còn những bất mãn khác.

Zachary Abuza đã phân tích rằng trong bốn năm làm Tổng Bí thư của ông Phiêu, Việt Nam cũng chứng kiến giai đoạn thoái trào về kinh tế.

Khủng hoảng châu Á, sự miễn cưỡng cải tổ, tham nhũng tạo nên một bức tranh bi quan. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm từ bốn tỉ đôla năm 1998 xuống còn 1.48 tỉ năm 1999.

Việc ông Phiêu không muốn cải tổ doanh nghiệp quốc doanh cùng với những tuyên ngôn ý thức hệ của ông khiến ông được liệt vào hàng 'bảo thủ'.

Vị Tổng Bí thư cũng bị phê phán là quá ngả về phía Trung Quốc.

Tại hội nghị ở Bắc Kinh, ông Phiêu nhượng bộ trước sức ép của Trung Quốc về việc phân định vịnh Bắc bộ. Theo Zachary Abuza, ông làm điều này mà không có sự chấp thuận trước của Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương và cả Bộ Ngoại giao.

Chi tiết tự ý hành động này cũng liên quan đến một chỉ trích khác về ông Lê Khả Phiêu, đó là ông đã không tôn trọng những người đưa ông lên làm lãnh đạo.

Năm 1997, ông Lê Khả Phiêu được đưa lên làm Tổng Bí thư, chủ yếu nhờ sự bảo trợ của ông Lê Đức Anh.

Nhưng đến tháng Tư 2001, ban cố vấn, gồm ông Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh lúc này đồng ý hợp tác để gây sức ép buộc ông Phiêu ra đi.

Sai lầm của ông Phiêu là việc ông muốn bãi bỏ chức cố vấn, mà quên rằng những nhân vật này có thể liên kết với nhau để bảo đảm vị trí chính trị.

Tháng 10-2000, các cố vấn ký tên vào một lá thư chung gửi Bộ Chính trị phê phán ông Phiêu.

Theo David Koh, lá thư này lẽ ra không đủ sức hạ bệ ông Phiêu nếu những cáo buộc trong thư không có phần sự thật. Ông Phiêu không có quan hệ tốt với các thành viên trong Bộ Chính trị, và scandal nghe lén và cáo buộc quá thân Trung Quốc đã là những giọt nước tràn ly.

Sức mạnh của nhóm và địa phương

Bên cạnh đó, có những yếu tố căn bản trong hệ thống chính trị Việt Nam đã góp phần dẫn tới thất bại của ông Lê Khả Phiêu.

Thứ nhất, hệ thống chính trị Việt Nam dựa trên mối quan hệ bảo trợ: một lãnh đạo có quyền uy tột bực và đằng sau ông ta là các cá nhân và nhóm mà đã thăng tiến nhờ lãnh đạo, và vì thế có sự trung thành.

Thế hệ lãnh đạo ngay trước ông Lê Khả Phiêu - các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt - đã ở vị trí lãnh đạo ngay từ thời chiến, và có quan hệ rộng trong cả ba khu vực đảng, quân đội và nhà nước.

Thế hệ lãnh đạo gần đây của Việt Nam không sở hữu một hệ thống quyền lực to lớn như thế. Phần nào đó, điều này cũng đã diễn ra tại Trung Quốc, nơi hiện không còn dạng lãnh tụ tuyệt đối như Mao Trạch Đông hay Đặng Tiểu Bình.

Trong trường hợp ông Lê Khả Phiêu, chưa bao giờ ông có một mạng lưới rộng khắp như những người đã bảo trợ cho ông.

Tạo lập sự nghiệp hoàn toàn trong quân đội, ông được thuyên chuyển qua nhiều vị trí và không có đủ thời gian củng cố nền móng quyền lực.

Và lý do cuối cùng sau đây sẽ giải thích vì sao điều hiếm thấy đã xảy ra tại Đại hội IX khi Ban chấp hành trung ương bỏ phiếu ngược lại quyết định của Bộ Chính trị để hạ bệ ông Phiêu.

Như Zachary Abuza giải thích, điều hiếm thấy này thể hiện quá trình phi tập trung hóa và sự gia tăng quyền lực của các tỉnh trong tương quan với trung ương.

Sự tự chủ của các tỉnh, thành đã gia tăng trong thập niên 1990, với việc tăng gấp đôi số đơn vị hành chính trong giai đoạn 1990-2000, từ 40 lên 61.

Cải tổ kinh tế đã khiến nhiều nơi ít phụ thuộc hơn vào trung ương, và đi kèm theo sức mạnh kinh tế sẽ là sức mạnh chính trị.

Năm 1982 tại Đại hội Đảng lần thứ Năm, số viên chức tỉnh nằm trong Ban Chấp hành trung ương chỉ chiếm 15.6%. Đến năm 1991, con số này đã là 35.6%.

Tại Đại hội Tám, lần đầu tiên các lãnh đạo cấp vùng, ông Trương Tấn Sang và Lê Xuân Tùng, được bầu vào Bộ Chính trị.

Trong giai đoạn nắm quyền của ông Lê Khả Phiêu, sự gia tăng đại diện từ các tỉnh, thành trong Ban Chấp hành trung ương đồng nghĩa với việc gia tăng sự bất mãn với Tổng Bí thư.

Kết quả tại Hội nghị trung ương lần thứ 12, trước khi khai mạc Đại hội IX, các thành viên trong Ban Chấp hành trung ương đã bác bỏ quyết định của Bộ Chính trị và bỏ phiếu buộc Tổng Bí thư ra đi.

Tóm lại, sự ra đi của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu là tổng hợp của nhiều nguyên do và nó cũng cho thấy một số thay đổi trong hệ thống chính trị Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

Carlyle Thayer: Political Developments in Vietnam: the rise and demise of Le Kha Phieu, 1997-2001, đăng trong cuốn Consuming urban culture in contemporary Vietnam (2003).

David Koh: The politics of a divided party and Parkinson's state in Vietnam, đăng trong tạp chí Contemporary Southeast Asia, tháng 12-2001.

Zachary Abuza: The lessons of Le Kha Phieu: Changing rules in Vietnamese politics, đăng trong tạp chí Contemporary Southeast Asia, tháng Tư 2002.

=======================================
Abc
Bài viết rất hay, đem lại cho tôi nhiều hiểu biết về tình hình chính trị Việt Nam hiện nay. Tôi mong sẽ có nhiều bài viết chất lượng như thế này được đăng ở trên BBC, chứ tôi thực sự chẳng thích những bài viết phê phán Việt Nam của những người theo cách viết là chống Cộng Sản, như thế rõ ràng bài viết sẽ không khách quan và sẽ chẳng thuyết phục được ai, mà còn có khi gây phản cảm về BBC đối với người đọc. Và cuối cùng tôi mong đọc được những bài viết của những người trung lập như thế này. Cả bài không hề có một lời phê phán Việt Nam, chỉ kể lại những sự kiện những phân tích khách quan về tình hình chính trị của Việt Nam còn lại thì để người đọc tự cảm nhận, tự rút ra nhiều điều từ bài viết đó mà không có sự ép buộc nào.