28 Tháng 3 2006 - Cập nhật 09h01 GMT
Trong cuộc tranh luận về dân chủ ở Việt Nam, một câu hỏi không thể bỏ qua là liệu có sự tồn tại của một truyền thống dân chủ trong lịch sử Việt Nam hay không.
Để cung cấp tư liệu tham khảo, chúng tôi xin đăng lại bài viết về chủ đề này của giáo sư sử học Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử từ năm 1988.
Bài viết này được công bố lần đầu tiên vào năm 1988, trong giai đoạn đầu của quá trình Đổi mới, khi mà những câu hỏi về dân chủ, dân sinh đang được sôi nổi bàn luận vào lúc bấy giờ.
1. Vấn đề dân chủ trong truyền thống Việt Nam đã được đặt ra trong giới nghiên cứu của chúng ta từ hơn một thập kỷ nay. Qua những bài viết được công bố và những lời phát biểu trong các cuộc hội thảo khoa học, đã hình thành hai quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về vấn đề này.
Một số người khẳng định và nêu cao truyền thống dân chủ, coi như một trong những truyền thống ưu việt của nhân dân được tạo nên trong quá trình dựng nước và giữ nước, và là một cơ sở thuận lợi để xây dựng chế độ làm chủ tập thể, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Một số người khác, nhất là trong thời gian gần đây, lại tỏ ý hoài nghi hoặc phủ nhận hoàn toàn về sự xuất hiện và tồn tại của một truyền thống dân chủ trong điều kiện của chế độ quân chủ chuyên chế ở Việt Nam và phương Đông nói chung.
Cả hai quan điểm trái ngược đó lại gần như thống nhất về mặt phương pháp : sử dụng một số ca dao, tục ngữ, tập quán trong kho tàng văn hoá dân gian hay một số tư liệu về mối quan hệ vua - quan - dân rút từ trong thư tịch cổ, để chứng minh cho nhận định của mình. Đó là phương pháp chọn lọc một số tư liệu, chứ không phải là sự khái quát khoa học dựa trên cơ sở phân tích và tổng hợp mọi tư liệu có liên quan và lý giải nguồn gốc của nó trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Đấy cũng là biểu hiện của phương pháp minh họa mang nặng tính chủ quan đã một thời chi phối công tác nghiên cứu sử học của chúng ta.
Vì vậy trong bài viết này, để góp phần giải quyết vấn đề dân chủ trong truyền thống Việt Nam, tôi không muốn dừng lại ở những biểu hiện bề ngoài của nó, mà thử phân tích những cơ sở hình thành và phát triển của nó trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
2. Sau một thời kỳ phát triển lâu dài của chế độ công xã nguyên thủy với những quan hệ cộng đồng-dân chủ nguyên thủy, lịch sử Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới, bước vào thời kỳ phân hoá xã hội với cuộc đấu tranh triền miên diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau giữa người lao động bị áp bức, bóc lột với kẻ thống trị áp bức, bóc lột. Trong cuộc đấu tranh xã hội đó thường xuất hiện những tư tưởng dân chủ nhất định phản ánh khát vọng và ước mơ của quần chúng lao khổ chống lại các bất công và bất bình đẳng xã hội. Nội dung và mức độ phát triển của những tư tưởng dân chủ đó tùy thuộc vào tính chất của hình thái kinh tế - xã hội thống trị, vào mức độ phân hoá và đấu tranh xã hội, vào vị trí kinh tế - xã hội của giai cấp bị áp bức, bóc lột. Những tư tưởng dân chủ như vậy đã từng xuất hiện trong xã hội chiếm hữu nô lệ, trong xã hội phong kiến và được phản ánh trong tư tưởng của một số nhà hiền triết, trong đạo Cơ Đốc sơ kỳ, đạo Phật sơ kỳ, trong cải cách tôn giáo, trong chiến tranh nông dân...
Xã hội phân hoá và Nhà nước sơ kỳ trong lịch sử Việt Nam cổ đại thuộc một loại hình thái kinh tế - xã hội mà giới sử học nước ta đã thảo luận hơn 30 năm nay (từ 1959 đến nay) và liên quan đến vấn đề phương thức sản xuất châu Á mà giới khoa học thế giới đã tranh luận trên nửa thế kỷ nay (từ 1929 đến nay). Tuy nhiên ta có thể ghi nhận một đặc điểm quan trọng là trong xã hội đó, quan hệ bóc lột nô lệ không phát triển bao nhiêu và chỉ dưới dạng chế độ nô lệ gia trưởng (ta thường gọi là chế độ nô tỳ), lực lượng sản xuất chủ yếu là thành viên công xã nông thôn.
Tiếp theo đó, lịch sử Việt Nam có trải qua chế độ phong kiến hay không cũng là một vấn đề gần đây được nêu lên như một vấn đề tranh luận mà một xu hướng đang phát triển ở phương Tây gần đây là hoài nghi hoặc phủ nhận sự tồn tại của chế độ phong kiến ở Việt Nam và thậm chí cả phương Đông nói chung. Riêng tôi, cho đến nay tôi vẫn cho rằng Việt Nam có trải qua một thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến nhưng thuộc một loại hình chế độ phong kiến phương Đông có nhiều đặc điểm khác với chế độ phong kiến phương Tây.
Chế độ phong kiến Việt Nam hình thành và phát triển trên cơ sở một mặt là bảo tồn và phong kiến hoá kết cấu kinh tế xã hội của công xã nông thôn, mặt khác là sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất. Chế độ sở hữu ruộng đất của công xã chuyển hoá thành chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất, và do đó quan hệ giữa vua và thần dân bao gồm cả quan hệ bóc lột địa tô của một địa chủ lớn (vua) đối với nông dân tá điền (thành viên công xã). Cùng với sự ra đời và phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất, trong xã hội lại xuất hiện một tầng lớp địa chủ tư hữu (bao gồm địa chủ, quý tộc và một số quan lại) phát canh thu tô bóc lột trực tiếp nông dân tá điền, và một tầng lớp nông dân tư hữu có ít nhiều ruộng đất tư. Giai cấp nông dân Việt Nam như thế là bao gồm một số nông dân tự canh có ruộng đất tư hữu, số đông là nông dân tá điền không có hoặc không có bao nhiêu ruộng đất tư nên phải cày ruộng của nhà vua và địa chủ theo quan hệ địa chủ - tá điền, và một số nông dân nghèo khổ phải đi làm thuê, đi ở, thân phận gần như nô tỳ và thường dễ rơi xuống thân phận nô tỳ.
Như vậy là quần chúng lao động đông đảo trong xã hội Việt Nam cổ truyền là nông dân công xã và nông dân tá điền, có kinh tế riêng nhưng hầu như không có quyền sở hữu ruộng đất. Đặc điểm kinh tế xã hội đó ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đấu tranh xã hội của nông dân và quá trình nẩy sinh, phát triển cũng như nội dung tư tưởng dân chủ của nông dân Việt Nam.
Trong quá trình phong kiến hoá công xã nông thôn từ thế kỷ X đến XV, đã xuất hiện những cuộc đấu tranh của nông dân vào cuối đời Lý và cuối đời Trần với những tư tưởng đòi bình đẳng xã hội và cứu giúp người nghèo. Tư tưởng đó thể hiện trong cuộc khởi nghĩa Lê Văn cuối thế kỷ XII và khởi nghĩa Ngô Bệ cuối thế kỷ XlV. Lê Văn tung tin thấy vết chân trâu trắng trên cây để đoán rằng : " Trâu trắng là vật ở dưới nước, nay lại ở trên cây, thế là điềm kẻ dưới lên ở trên ", để cổ vũ quần chúng. Ngô Bệ nêu khẩu hiệu " chẩn cứu dân nghèo " để tập hợp quần chúng nổi dậy chống triều Trần.
Đến giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, trong cuộc chiến tranh nông dân thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX tư tưởng dân chủ nông dân được phát triển lên trình độ mới với khẩu hiệu " lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo ", phản ánh yêu cầu bình đẳng tài sản và tâm lý bình quân chủ nghĩa của những người tiểu nông trong điều kiện kinh tế hàng hoá đã phát triển. Tư tưởng đó biểu thị rõ nét trong phong trào Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII, nhất là trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa. Một điểm đáng lưu ý là trong phong trào nông dân ở giai đoạn cuối của phong kiến Việt Nam không thấy xuất hiện khẩu hiệu ruộng đất như trong phong trào nông dân nhiều nước Tây Âu ở hậu kỳ phong kiến hay phong trào Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc giữa thế kỷ XIX. Khuynh hướng chung của nông dân Việt Nam là muốn củng cố chế độ ruộng đất công của làng xã với một quy chế quân điền bình đẳng, bảo đảm cho mọi người có ruộng đất khẩu phần đủ để cày cấy, nộp tô, thuế vừa phải cho Nhà nước. Điều đó có thể được giải thích bằng tâm lý của người nông dân công xã mà những tàn dư của nó được bảo lưu lâu dài trong xã hội phong kiến.
Về mặt chính trị, tư tưởng dân chủ cao nhất của nông dân là bạo động chống lại chế độ chuyên chế, lật đổ bọn bạo chúa, tham quan, cường hào với ước mơ một xã hội công bằng có vua sáng tôi hiền. Đó là tư tưởng :
- Được làm vua, thua làm giặc
- Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Tư tưởng đó cũng dội vào nhận thức của một số nhà văn hoá mang nặng tấm lòng nhân đạo như :
Thà rằng bạo động bất lương,
Còn hơn chết đói nằm đường thối thây.
(Lê Hữu Trác, Vệ sinh yếu quyết)
Như vậy là trong đấu tranh xã hội, tư tưởng dân chủ của nông dân Việt Nam chỉ dừng lại ở yêu cầu bình đẳng xã hội, bình đẳng tài sản mà mức độ phát triển cao nhất là chủ nghĩa bình quân về kinh tế - xã hội và tư tưởng bạo động về mặt chính trị. Tư tưởng đó gắn liền với tâm lý người nông dân công xã, người sản xuất nhỏ, nó có mặt chính đáng và tích cực của nó trong cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế, chống những bất công của xã hội phong kiến, nhưng cũng bộc lộ mặt không tưởng và bất lực của người nông dân trong sự nghiệp tự giải phóng mình.
3. Một đặc điểm quan trọng của xã hội Việt Nam cổ truyền là sự tồn tại và bảo lưu lâu dài tàn dư của công xã nông thôn.
Đây là công xã nông thôn thuộc loại hình Á châu mà trong giai đoạn đầu, đặc điểm cơ bản của nó là quyền sở hữu công xã về toàn bộ ruộng đất và công xã đem phân chia ruộng đất đó cho các gia đình thành viên cày cấy. Bộ máy quản lý công xã do các thành viên cử ra mà đứng đầu là một Già làng có âm tiếng Việt cổ gần như Po Chiêng và phiên âm Hán-Việt là Bồ Chính.
Về sau chế độ tư hữu ruộng đất phát triển thu hẹp dần chế độ ruộng đất công của làng xã và sự phân hoá xã hội bên trong cũng càng ngày càng nâng cao. Quá trình đó diễn ra cùng với quá trình phong kiến hoá công xã nông thôn.
Nhưng nói chung, tàn dư của công xã nông thôn ở những mức độ tồn tại khác nhau tùy từng lúc và từng nơi, vẫn được bảo lưu lâu dài trong xã hội Việt Nam cổ truyền. Tất nhiên ở đây có sự khác biệt giữa làng xã miền Bắc và miền Nam do nhiều hoàn cảnh và điều kiện lịch sử qui định.
Trên cơ sở quan hệ cộng đồng công xã đó, hình thành và bảo tồn một loạt phong tục tập quán gọi chung là "lệ làng" ít nhiều phản ánh tính chất dân chủ công xã. Nó được biểu thị trong mối quan hệ tương đối bình đẳng giữa các thành viên trong việc chia ruộng đất công và trong các sinh hoạt cộng đồng, trong sự tôn trọng người già bất cứ thuộc đẳng cấp nào, trong việc thừa nhận vai trò to lớn của người mẹ và người phụ nữ trong đời sống gia đình và làng xã.
Những lệ làng mang tính dân chủ công xã đó được phản ánh rõ nét trong kho tàng văn hoá dân gian, nhất là trong ca dao, tục ngữ mà nhiều người đã dẫn chứng. Trong bộ luật Hồng Đức gồm 722 điều luật được xây dựng trong thế kỷ XV và được áp dụng lâu dài cho đến cuối thế kỷ XVIII (dĩ nhiên có được bổ sung và sửa chữa ít nhiều), một số phong tục tập quán dưới dạng luật tục dân gian có hiệu lực lâu đời đã được ghi nhận và pháp chế hoá thành những điều luật của Nhà nước phong kiến. Điều này được thể hiện tập trung nhất trong những điều luật về quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, trong việc thừa hưởng gia tài, kế thừa hương hỏa và phân chia tài sản khi vợ chồng phải li dị. Nhiều nhà luật học phương Tây đã ghi nhận đây là những điều luật đặc biệt của Bộ luật Hồng Đức và nêu cao tinh thần dân chủ của nó, nhưng dĩ nhiên họ không giải thích được nguồn gốc lịch sử của nó và do dó sự đánh giá cũng có mặt không thỏa đáng.
Trong quá trình phong kiến hoá công xã nông thôn, nhất là từ thế kỷ XV trở đi, " phép vua " ngày càng can thiệp và áp đặt vào đời sống cộng đồng của làng xã và từ đó, diễn ra cuộc đấu tranh giữa " phép vua " với " lệ làng ". Xu thế chung là "ấphép vua " ngày càng thắng thế và chi phối, nhưng không thể xoá bỏ được " lệ làng " và " lệ làng " tỏ ra rất bướng bỉnh, nhiều khi " phép vua " thua " lệ làng ".
Tư tưởng dân chủ công xã có mặt tích cực của nó trong đời sống xã hội lúc bấy giờ, nhưng cũng gắn liền với tính cục bộ, địa phương của công xã và những hẹp hòi của các hình thức dân chủ công xã. Công xã chỉ thừa nhận quyền bình đẳng và dân chủ giữa các thành viên khi họ là thành viên của công xã, là bộ phận tạo thành của cộng đồng, nhưng hoàn toàn không công nhận quyền của cá nhân, của con người với tư cách là một thực thể độc lập. Dân chủ công xã không dựa trên sự giải phóng con người và tôn trọng quyền của con người, mà trói chặt con người trong quan hệ cộng đồng và chỉ bảo đảm quyền lợi bình đẳng của con người với tư cách là thành viên của cộng đồng.
4. Việt Nam trước cách mạng chưa hề trải qua một hình thức tồn tại của nền cộng hoà dân chủ, mà chỉ có một chính thể duy nhất là chế độ quân chủ với những dạng thức tập quyền và mức độ chuyên chế khác nhau.
Cho đến trước thế kỷ XV, nhất là trong thời Lý, Trần, chế độ quân chủ tập quyền đã được xác lập vững vàng, nhưng chưa mang tính chất chuyên chế quan liêu nặng nề. Chế độ đó dựa trên nền tảng công xã nông thôn phổ biến và bền vững đang trên đường phong kiến hoá.
Đất nước sau hơn nghìn năm Bắc thuộc, vừa giành lại độc lập dân tộc và đang phải bảo vệ nền độc lập đó chống lại nhiều cuộc chiến tranh xâm lược ác liệt của những đế chế lớn mạnh. Các vương triều tiến bộ lúc bấy giờ sớm nhận thức được mối quan hệ gắn bó giữa lợi ích của vương triều với lợi ích chung của cả dân tộc và đang giữ vai trò tổ chức, lãnh đạo các cuộc chiến tranh giữ nước. Đó là những cuộc kháng chiến và những cuộc chiến tranh giải phóng mang tính dân tộc và tính nhân dân sâu rộng, những cuộc chiến tranh nhân dân yêu nước chống ngoại xâm với vai trò định đoạt của nhân dân, của khối đoàn kết dân tộc. Từ thực tế lịch sử đó, Trần Quốc Tuấn đã coi " chúng chí thành thành " (ý chí của dân chúng là bức thành giữ nước) và tổng kết nguyên nhân thắng lợi cơ bản là do " vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức ", Nguyễn Trãi cũng ví dân như nước, nước có thể chở thuyền và lật thuyền nên " phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ " (thuyền bị lật mới biết sức dân như nước).
Từ những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị và hoàn cảnh giữ nước trên đây, các vương triều tiến bộ thời bấy giờ phải lo giữ lòng dân và phải áp dụng một số hình thức dân chủ đối với dân. Từ đó, chúng ta thấy nhà Lý đặt Lầu Chuông trong thành Thăng Long để " dân chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên ", nhà Trần mở hội nghị Diên Hồng để cùng với các bô lão bàn kế đánh giặc, Trần Quốc Tuấn chủ trương " khoan thu sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc " và Nguyễn Trãi ước mong làm sao " nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than "... Đó là những yếu tố dân chủ gắn liền với sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc đương thời và thực tế lịch sử đã chỉ rõ, một phong trào dân tộc rộng lớn bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố dân chủ nhất định.
Nhưng từ thế kỷ XV trở đi, chế độ quân chủ chuyển sang mô hình Nho giáo với tính chất chuyên chế quan liêu càng ngày càng nặng nề. Và cũng từ đó, mối quan hệ giữa vua quan và dân càng ngày càng tách rời và đối lập, những chủ trương và hình thức dân chủ của các vương triều trước không còn được kế tục nữa.
5. Qua sự phân tích những cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị đã từng làm nẩy sinh và bảo tồn, phát triển trong mức độ nào đó những tư tưởng và hình thức dân chủ trong xã hội Việt Nam cổ truyền, tôi rút ra mấy nhận xét tổng quát sau đây :
* Không thể phủ nhận được sự tồn tại của một số tư tưởng và hình thức dân chủ nào đó trong đời sống xã hội và trong truyền thống Việt Nam.
* Những tư tưởng và hình thức dân chủ đó thực chất là dân chủ nông dân nẩy sinh trong cuộc đấu tranh xã hội của những người sản xuất nhỏ mà đỉnh phát triển cao nhất là chủ nghĩa bình quân, là dân chủ công xã dựa trên sự bảo tồn quan hệ cộng đồng công xã và một số biện pháp thân dân của các vương triều tiến bộ trong điều kiện phân hoá giai cấp chưa gay gắt và trước yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ giữ nước. Những tư tưởng và hình thức dân chủ đó đã biểu thị mặt tích cực và tiến bộ của nó trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ nhưng cũng có mặt hạn chế nặng nề của nó.
* Có thể coi đó là những yếu tố dân chủ và xã hội chủ nghĩa như cách nói của V. I. Lênin, và cần trân trọng nó khi nghiên cứu và đánh giá di sản văn hoá truyền thống. Nhưng từ đó khuếch đại lên thành một truyền thống dân chủ mạnh mẽ của nhân dân ta thì không phản ánh đúng sự thật lịch sử và dễ đánh lừa, ru ngủ chúng ta một cách nguy hiểm trước thực tế chúng ta đang ra sức khắc phục tình trạng mất dân chủ hiện nay và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
* Trong lịch sử tiến hoá của nhân loại, trong chế độ cổ đại, đã có nền dân chủ chủ nô, nhưng chỉ giới hạn trong giai cấp chủ nô và những người tự do, và hơn thế nữa, phủ nhận quyền dân chủ, chà đạp lên quyền sống và nhân phẩm của quần chúng lao động đông đảo là nô lệ. Phải đến thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, trên cơ sở xã hội công dân và Nhà nước pháp quyền, con người mới được giải phóng khỏi các chế độ chuyên chế và một nền dân chủ, một truyền thống dân chủ thực sự mới được xây dựng, vừa mang tính giai cấp của chủ nghĩa tư bản, vừa phản ánh một bước tiến của văn minh nhân loại. Nhưng Việt Nam không trải qua thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản nên cũng không có điều kiện xây dựng nền dân chủ tư sản và không có truyền thống dân chủ tư sản, có chăng chỉ là một số yếu tố, một số tư tưởng nào đó tiếp thụ từ bên ngoài và nẩy nở trong một số thành phần xã hội nhất định.
* Những yếu tố dân chủ trong truyền thống Việt Nam còn quá thấp và quá yếu so với yêu cầu xây dựng nền dân chủ hiện nay. Hơn nữa trong truyền thống Việt Nam, dân chủ nông dân với tư tưởng bình quân chủ nghĩa và dân chủ công xã lấy quan hệ cộng đồng để trói buộc con người còn có mặt di hại cho nền dân chủ hiện nay và là cội nguồn tư tưởng của một số mặt tiêu cực trong xã hội đang diễn ra hàng ngày.
Công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hôm nay phải xuất phát từ di sản lịch sử và văn hoá của quá khứ để lại, trong đó có những mặt mạnh và ưu việt cần được kế thừa và phát huy, những mặt yếu và lỗi thời cần được khắc phục để vươn lên tiếp nhận những xu thế và thành tựu của thời đại. Nền dân chủ chúng ta đang xây dựng hiện nay có kế thừa một số yếu tố dân chủ của di sản truyền thống, nhưng cũng phải khắc phục nhiều hạn chế và di hại của quá khứ. Quá trình dân chủ hoá là một quá trình mới mẻ trong lịch sử Việt Nam và quá chậm so với tiến trình lịch sử thế giới, do đó đòi hỏi chúng ta phải có những bước đi thích hợp và khẩn trương nhằm xây dựng một nền dân chủ Việt Nam vừa phù hợp với văn hoá và truyền thống Việt Nam, vừa bắt kịp sự tiến hoá của thời đại.