BBCVietnamese.com

12 Tháng 6 2006 - Cập nhật 11h12 GMT

Khi Harvard dạy kinh tế tư bản ở VN

Tiếp tục loạt bài nói về giáo dục ở Việt Nam, phóng viên của tờ báo Mỹ Chronicle of Higher Education đã tìm hiểu về một chương trình giảng dạy kinh tế do Trường Quản lý Nhà nước John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard hợp tác thực hiện với Đại học Kinh tế TP. HCM.

Khi mới khởi đầu từ giữa thập niên 1990, chương trình này của Đại học Harvard vất vả tìm kiếm học viên.

Như phóng viên Martha Ann Overland viết trên báo Chronicle of Higher Education, số ra ngày 9-6-2006, lúc mới bắt đầu, chương trình một năm này hứa hẹn miễn học phí, nơi ở, thậm chí có tiền tiêu vặt hàng tháng, nhưng “vết thương từ cuộc chiến còn mới, và nghi ngờ còn hằn sâu.”

“Chương trình, khi mới bắt đầu, không thể đăng quảng cáo, nên nó phải nhờ giới chức ở các tỉnh và công ty nhà nước đề cử người đi học. Không ai biết việc được cử đến một chương trình của Harvard để học về thị trường tự do là phần thưởng hay trừng phạt.”

Khi Harvard mới tiếp cận Việt Nam, ý tưởng giảng cho những người cộng sản cách trở thành nhà tư bản là một quan niệm bất thường.

Nhiều người, trong đó có Thượng nghị sĩ John F. Kerry và John McCain, tin rằng đây có thể là cách cải thiện quan hệ song phương. Ngay cả bây giờ, chương trình với chi phí hai triệu đôla này cũng chủ yếu nhận tài chính từ Bộ Ngoại giao Mỹ và vẫn được xem là một sứ mạng ngoại giao.

Nội dung khác

10 năm đi qua, chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright ở TP. HCM đã trở thành một trong những khóa ăn khách nhất ở Việt Nam.

Chương trình bộc lộ các vấn đề của một nền kinh tế kế hoạch và xem xét những vấn nạn thường gặp ở các công ty quốc doanh.

Ông Châu Văn Thành, giám đốc đào tạo chương trình, nói cách dạy ở đây cũng khác.

Sinh viên được khuyến khích tranh luận và thách thức. Ngay cả đến hôm nay, quá trình này vẫn có thể gây khó cho học viên, những người được nuôi lớn với ý niệm rằng đặt nghi vấn với giáo viên không chỉ là bất kính, mà còn đáng xấu hổ.

Một chi tiết làm các học viên tốt nghiệp hàng năm không vui là họ không được nhận bằng cao học. Một lý do là vì Harvard không đồng ý tuân theo các quy định của chính phủ Việt Nam, ví dụ như giảng dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Dù sao thì khi kết thúc khóa học thành công, các học viên nhận được một chứng chỉ chứng nhận họ đã hoàn thành chương trình.

Sau 20 năm làm quen với kinh tế thị trường, nhiều quan niệm mà chương trình giảng dạy không còn mới mẻ ở Việt Nam.

 Họ quen nghĩ theo một cách nhất định, và chúng tôi thì yêu cầu họ nghĩ khác
 
Phó giám đốc Vũ Thành Tự Anh

Ông David O. Dapice, một giáo sư nhiều năm giảng dạy ở chương trình, nói đa số sinh viên nay lớn lên cùng cải cách. Họ hiểu độc quyền làm tăng giá cả. Cứ thử quan sát sự bùng nổ các công ty viễn thông gần đây đã khiến giá các cuộc gọi giảm so với trước như thế nào.

Tuy vậy, nhiều sinh viên vẫn đến với chương trình mang theo những tư tưởng cũ. Ông Vũ Thành Tự Anh, phó giám đốc phụ trách nghiên cứu của chương trình, nói lý do chủ yếu là ảnh hưởng của hệ thống giáo dục mà họ đã trải qua.

“Đa số thấy rất khó phê phán chính phủ,” ông ghi nhận. “Họ quen nghĩ theo một cách nhất định, và chúng tôi thì yêu cầu họ nghĩ khác.”

Một ví dụ nổi bật là cuộc thảo luận gần đây về kế hoạch xây một phi trường mới cho TP. HCM., đặt tại một tỉnh lân cận. Phi trường này sẽ chẳng tiện lợi cho ai – có lẽ đối tượng hưởng lợi duy nhất là những người ký được hợp đồng xây dựng.

Giáo sư từ Harvard gọi kế hoạch xây dựng là một chính sách tự sát.

Nhưng nhiều học viên phản đối cách gọi này, nói rằng một phi trường lớn sẽ giúp thể hiện một hình ảnh Việt Nam hùng cường trước thế giới.

Nhiều người khác trong lớp chê cười những người ủng hộ chính quyền, nhưng không ai thay đổi ý kiến.

Tuy vậy, vị giáo sư sau đó hỏi lớp học: “Các bạn có định mua công trái để có tiền thực hiện dự án này không?”

Ông Vũ Thành Tự Anh mỉm cười và nói: “Không ai giơ tay cả.”

......................................................

Võ Thy, Đà Nẵng
Tôi cũng được biết đến chương trình này qua sự giới thiệu của các cựu học viên và tôi thực sự háo hức. Bỏ 1 năm lương, thưởng, bỏ hẳn công việc để tham gia khi hoàn cảnh còn khó khăn là một sự trả giá đối với những học viên nhưng tôi nghĩ cơ hội không có nhiều, không phải vì học bổng từ đâu mà tôi thực sự thích thú với chương trình học, kiến thức mình sẽ học được.

Bằng cấp đúng là ko quan trọng, các đồng nghiệp hỏi tôi "học xong là có bằng gì? tại sao ko thi và học bằng Tiếng Anh" tôi chỉ trả lời "chỉ có chứng nhận và ko xác định bằng cấp và điều này rõ ràng ko quan trọng, quan trọng là cái mình học được, đó cũng là lý do tại sao tôi không chọn học Bằng 2 Kinh tế. Còn vì sao chương trình dạy Tiếng Việt bởi vì các học viên có thể chưa đủ khả năng theo kịp bằng ngoại ngữ và quan trọng là chương trình học rất nặng và cần sự đầu tư và hiểu sâu sắc nhiều hơn.

Hà Lâm, TP. HCM
Tôi cũng đồng ý với quan điểm của Nguyễn Lập, thực chất chương trình là đào tạo những công chức làm được việc và góp phần xây dựng đất nước. Cũng có những đối tượng khác ngòai giới công chức, DNNN... như tư nhân hay đang công tác tại các công ty liên doanh. Nhưng đấy là mục đích của chương trình muốn lan truyền kiến thức cho nhiều người biết.

Và một thực tế nhiều giảng viên đại học mặc dù đã có bằng thạc sĩ, nhưng họ chấp nhận khỏang thời gian hơn 10 tháng nhằm nâng cao kiến thức và truyền đạt lại cho các thế hệ sau, đó là một điều đáng quý. Mặc dù đôi khi sự truyền đạt ấy không thể 9/10 phần họ được học, nhưng cũng làm thay đổi dần cách suy nghĩ về cách dạy và học ở Việt Nam.

Chương trình rất hữu ích cho những ai đã học ngành kinh tế cũng như chưa, đừng kỳ vọng chuyện học phải bằng ngôn ngữ nơớc ngòai hay không trong khi có những từ chuyên ngành bằng tiếng việt mà bạn còn chưa hiểu rõ.

Một sự thật là đội ngũ cán bộ giảng viên tại chương trình giảng dạy bằng ngôn ngữ nước ngòai theo phong cách "bà ngọai cũng hiểu" giúp bạn nhớ lâu hơn so với việc học thuần túy ở môi trường học tiếng nước ngòai hòan tòan 100% mà bạn chưa hiểu hết.

Nguyễn Lập, Nha Trang
Tôi đã tốt nghiệp chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright nên về bài viết cuả phóng viên Martha cũng như phần bình luận của Thái Vân Anh tôi có nhận xét như sau: 1. Bài của 2 người chỉ đúng một phần và đúng trong giai đoạn trước năm 2000. Đến nay chương trình vẫn quảng cáo trên WEB, qua cựu học viên và không giới hạn trong quan chức nhà nước nữa. Số học viên đăng ký dự tuyển khá cao.

2. Bằng cao học có hay không cũng còn tuỳ cách suy nghĩ. Vấn đề là anh làm được gì sau đào tạo, đem lại lợi ích gì cho đất nước. Học xong Fulbright tôi thấy tự tin và ứng dụng được nhiều kiến thức phù hợp với điều kiện thực tế đất nước, xu hướng chung.

Nếu các trường Đại học ở Việt nam đào tạo được chất lượng như thế này thì có thể không cần cải cách gì nữa.

Thái Vân Anh, Glasgow
Tôi có một số ý kiến với bài viết này từ những hiểu biết của tôi (một người đã tham gia giảng dạy ở Đại học) và các bạn bè tôi những người đã tham gia khoá học này trong những năm gần đây: 1)

Khoá học của Harvard không thể đăng quảng cáo, nhưng thực ra đây là do chính sách của Bộ Ngoại giao Mỹ - phục vụ cho việc phát triển viên chức cho các tỉnh và nhà nước. Do vậy, chỉ các nhân viên của các công ty nhà nước mới có thể nộp đơn.

Chương trình này dạy bằng tiếng Việt và vì vậy không thực sự được đón nhận ở Việt Nam, khi các học viên mong muốn được giảng dạy bằng tiếng Anh để có thể trau dồi ngôn ngữ nhiều hơn. Khoá học này cũng không được các học viên lựa chọn bằng việc tìm kiếm học bổng đi học ở nước ngoài như học bổng Fulbright (Mỹ), AusAID (Úc), JICA (Nhật) và hàng loạt các học bổng khác đi học ở Châu Âu.

Hiểu biết của tác giả về các chương trình đào tạo MBA, Master chưa thực sự phản ánh về các khoá đào tạo hợp tác ở Việt Nam hiện nay. Ở VN hiện nay không có tư duy về giới hạn đào tạo kinh tế tư bản hay ở VN gọi là Kinh tế thị trường.

Tất cả các chương trình đào tạo khác về Kinh tế(có thể tham khảo các khoá ở website (www.neu.edu.vn and www.ueh.edu.vn) của Đại học Kinh tế quốc dân thành phố HCM hay KTQD Hà Nội - các chương trình phối hợp với Pháp, Anh, Hà Lan, Bỉ...) đều phân tích kinh tế thị trường và so sánh với thực tiễn kinh tế Việt Nam.

Học viên cũng tham gia các khoá học nhóm, và tham gia làm đề tài, trao đổi thông tin. Hiện tại chính phủ Việt Nam đang cử nhân viên ra nước ngoài đào tạo về tất cả các ngành, điều này chứng tỏ việc tăng hiểu biết nền kinh tế thị trường là điều cần thiết. Và tôi nghĩ Chính phủ VN đã nhận ra điều đó từ hơn 10 năm nay, khi hàng loạt cán bộ được cử ra nước ngoài đào tạo và về VN giữ các vị trí chủ chốt ở các ban ngành.