26 Tháng 9 2006 - Cập nhật 15h27 GMT
Lê Quỳnh
BBC Việt ngữ
Đại sứ Mỹ ở Việt Nam, Michael W. Marine, nói khi ngày càng hội nhập với thế giới, Việt Nam sẽ càng khó duy trì chính sách "làm bạn với tất cả các nước."
Trong bài phát biểu ngày 20-9 trước khách mời là phóng viên, cựu chiến binh và trí thức ở TP. HCM, đại sứ Michael W. Marine nói Việt Nam có ảnh hưởng ngày càng tăng trong vùng Đông Nam Á và các diễn đàn đa phương khác.
'Trách nhiệm lớn hơn'
Đi cùng với vai trò lớn hơn cũng là trách nhiệm lớn hơn và theo đại sứ Mỹ, chính phủ Việt Nam sẽ phải có một thái độ rõ ràng trong các vấn đề quốc tế.
"Nói một cách thẳng thắn, tôi nghĩ rằng Việt Nam sẽ thấy ngày càng khó có thể duy trì chính sách đối ngoại “làm bạn với tất cả các nước” hiện nay của mình khi Việt Nam đảm nhiệm những trách nhiệm lớn hơn trong thế giới rất phức tạp của năm 2006 và xa hơn nữa."
Đại sứ Mỹ trực tiếp nhắc đến ba quốc gia - Iran, Bắc Hàn và Miến Điện - mà ông nói là gây đe dọa cho ổn định thế giới.
"Iran và Bắc Hàn đã là chủ đề tranh luận và hành động của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc; tình hình hiện nay ở Miến Điện cũng cần phải được thảo luận tại Hội đồng Bảo an LHQ," ông Marine nhấn mạnh.
Người đại diện cho chính phủ Mỹ ở Việt Nam nói Việt Nam có "vị thế thích hợp để sử dụng 'tình hữu nghị truyền thống' của mình với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên để giúp thuyết phục Bắc Hàn."
"Một nỗ lực như vậy của Việt Nam sẽ đẩy nhanh sự trỗi dậy của chính mình với tư cách là một nền kinh tế hiện đại và một đối tác có trách nhiệm và có phần lợi ích trong hòa bình và an ninh quốc tế," ông nói thêm.
Liên quan Miến Điện, đại sứ Michael W. Marine nói mức độ chủ động đi đầu của Việt Nam trong ASEAN sẽ là "dấu hiệu quan trọng" về những khả năng trong tương lai khi Việt Nam muốn đảm nhiệm vai trò thành viên của Hội đồng Bảo an LHQ.
15 năm trước, tại Đại hội năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra nguyên tắc mới về chính sách đối ngoại: "muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."
Chính sách ngoại giao này xuất hiện vào thời điểm công cuộc Đổi mới đi qua năm năm, và các chính quyền cộng sản - đồng minh truyền thống của Hà Nội - tan rã ở Liên Xô và Đông Âu.
Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ vào tháng 11 năm ấy, và bốn năm sau, quan hệ với Hoa Kỳ được tái lập.
Cũng trong năm 1995, ASEAN kết nạp Việt Nam làm thành viên, khép lại thời kì đối đầu chiến tranh Lạnh giữa tổ chức này và Hà Nội.
Việc kết nạp Việt Nam cũng mở đường cho Lào, Campuchia và Miến Điện gia nhập ASEAN sau đó.
Đại sứ Mỹ ngụ ý một sự chuyển đổi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tương lai sẽ hỗ trợ cho lợi ích của quốc gia.
Ông nói: "Việc có lập trường phù hợp với quan điểm nhất trí của quốc tế sẽ giúp thắt chặt quan hệ với nhiều quốc gia quan trọng, chứ không chỉ với Hoa Kỳ."
Thay đổi
Trong bài phát biểu này, đại sứ Mỹ cũng kêu gọi Việt Nam hướng đến một chế độ không có tham nhũng, được xây dựng trên hệ thống pháp luật minh bạch và công bằng và có sự tham gia rộng rãi hơn của nhân dân.
Ông nói ông nhìn thấy triển vọng tươi sáng trong quan hệ Việt - Mỹ, mà một dấu hiệu là phạm vi rộng lớn và tính chất cao cấp của các hoạt động giao lưu trong 15 tháng qua.
Đại sứ Michael W. Marine cũng nêu ra những vấn đề mà ông gọi là thách thức đối với triển vọng tăng trưởng của Việt Nam.
Về tham nhũng, đại sứ Mỹ nói đây là "căn bệnh ung thư" đe dọa sự ổn định và lành mạnh của nền kinh tế Việt Nam.
Một thách thức khác là "sự cần thiết phải tạo không gian thông thoáng hơn" cho các công dân Việt Nam được đến với nhau để bày tỏ ý kiến của mình.
Theo đại sứ Mỹ, "không có một hình thức hệ thống chính trị nào nhất thiết phải đảm bảo công bằng cho tất cả, nhưng tất cả các hệ thống công bằng đều dựa trên sự tham gia rộng rãi về mặt chính trị của các công dân của mình."
Ông cũng kêu gọi mở rộng hơn nữa không gian cho tín ngưỡng tôn giáo và than phiền về tốc độ "chậm chạp" trong việc đăng ký cho các nhà thờ ở phía bắc Việt Nam.
Ông Michael W. Marine được đề cử làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam năm 2004
Trước đó, ông là Phó Đại sứ tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Bắc Kinh từ năm 2000 đến tháng 6-2004.