BBCVietnamese.com

09 Tháng 1 2007 - Cập nhật 19h09 GMT

Thành công và thách thức

Nhân dịp Việt Nam chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), phóng viên Amy Kazmin của báp Financial Times có bài phân tích về hiện trạng kinh tế Việt Nam. Chúng tôi xin trích giới thiệu:

Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học vừa tổ chức một cuộc triển lãm đặt tên là "Hà Nội thời bao cấp" trình bày đời sống của người dân trong khoảng thời gian từ năm 1975 đến năm 1986, khi Hà Nội vẫn còn rập khuôn theo chế độ trung ương tập quyền và kinh tế chỉ huy.

Các đồ vật được trưng bày rất khiêm nhường : một vài cuốn sổ gạo và tem phiếu, một áo ấm đan, một nồi áp suất do Liên Xô chế tạo và thậm chí một cục gạch mà người dân dùng để giành chỗ xếp hàng mua gạo.

Tất cả những đồ vật này đã giúp cho khách đến xem triển lãm biết đến thời kỳ mà người dân phải chật vật lắm mới thỏa mãn được các nhu cầu căn bản của con người.

Các cuốn phim video được trình chiếu nhân dịp này, khách được xem cảnh người dân vui mừng khi được mua gạo còn tốt, không bị hẩm, xuyên qua cảnh hống hách của nhân viên cửa hàng bách hóa; cho tới cảnh người dân chen nhau mua một chiếc quạt để chống chọi với cơn nóng của mùa hè Hà Nội.

Ông Nguyễn Văn Huy, giám đốc Bảo Tàng Dân Tộc Học, nói rằng ông muốn chuyển tải nỗi nhục nhằn trong giai đoạn tiền Đổi Mới cho một thế hệ thanh thiếu niên người Việt - thế hệ ngồi xe máy, tay cầm điện thoại di động.

Nay Việt Nam là một nền kinh tế mà đà tăng trưởng khoảng 8% một năm, thu hút các nhà đầu tư lớn như Intel, Ikea và Canon.

Ông Huy nói: "Thế hệ trẻ ngày nay có nhiều tiện nghi và họ không hay biết được cha mẹ của chúng rất khổ cực".

Ông nói tiếp: " Nhưng nếu họ đến xem cuộc triển lãm này, thì họ sẽ cảm nhận được những gì mà cha mẹ họ đã trải qua, để cho họ tôn trọng quá khứ và tôn trọng những gì họ có ngày nay."

Kinh tế thị trường

Ngay khi trở thành hội viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, chấm dứt quá trình 30 năm hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, Hà Nội vẫn chính thức gắn bó với điều mà Hà Nội gọi là " kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Điều này có nghĩa rằng các xí nghiệp quốc doanh vẫn nắm giữ vai trò chỉ đạo, một mục tiêu làm cho các công ty ngoại quốc từ dịch vụ ngân hàng cho tới phân phối hàng hóa vô cùng bực bội.

Các nhà kinh tế cảnh báo rằng quyết tâm của Hà Nội muốn nắm vai trò lãnh đạo trong các công nghiệp then chốt có thể là sức ì và tạo ra một khuynh hướng bảo vệ hàng nội địa, làm suy yếu đi lãnh vực tư doanh.

Ông Jonathan Pincus, kinh tế gia trưởng của Liên Hiệp Quốc tại Hà Nội nói: " Tôi không nghĩ rằng khuôn mẫu này sẽ dẫn họ tới chỗ trở thành một nước có mức thu nhập trung bình. Hoặc họ sẽ phải đổi mới hoặc sẽ đi đến chỗ bị đình đốn".

Các con số từ phía Hoa Kỳ cho thấy khối lượng thương mại song phương đã lên 8 tỷ 100 triệu đôla trong năm 2006, trong số này 7 tỷ 200 triệu là xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ, so với 1 tỷ 100 triệu hồi năm 2000.

Tổng khối lượng hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tạo ra công ăn việc làm tại Việt Nam và đồng thời mức tiêu thụ của người dân cũng lên cao.

Ngày nay, người dân Việt Nam mua sắm TV, máy vi tính, máy chụp hình và cũng đã thích đi du lịch sang các nước lân cận.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa dứt bỏ được thói hư tật xấu từ thời bao cấp. Nền hành chánh quan liêu, lề mề, rất có quyền uy nhưng không dám quyết đoán bất cứ điều gì lớn lao.

Thậm chí sau hai thập niên đổi mới, nền kinh tế vẫn còn bị các xí nghiệp quốc doanh khống chế : 38% tổng sản lượng quốc dân còn phụ thuộc vào lãnh vực quốc doanh, vốn không có tính cạnh tranh và thường lãng phí tài nguyên hiếm quý.

Phương thuốc nhiệm mầu

Tư cách thành viên WTO theo nguyên tắc sẽ giúp cho Hà Nội đối phó được với các vấn đề này, đồng thời giúp thực thi một chương trình đổi mới dài hạn, tư hữu hóa nền kinh tế và tạo một sân chơi mới cho các công ty ngoại quốc.

Nhưng các nhà đầu tư đa quốc gia cảm thấy rằng con đường này quá dài, đầy chông gai và ngày mà họ thu được lợi nhuận còn quá xa.

Ông Võ Trí Thanh, một chuyên viên tại Viện Quản Lý Kinh Tế Trung Ương, nói rằng: "Nói chung, mọi người thấy rằng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài rất tốt, tuy nhiên một số lãnh vực có thể bị coi là có tính nhạy cảm về chính trị".

Ông Thanh nói tiếp: "Các công nghiệp thâm dụng nhân công của Việt Nam có thể có lợi từ hội nhập và có thể khai thác cái lợi thế tương đối, nhưng các kỹ nghệ nặng đòi hỏi nhiều vốn như là đường, xi-măng hoặc giấy, có thể mất đi vị thế".

Ông nói tiếp "Đối với các dân tộc Á châu, lý thuyết không quan trọng, vì người dân sẽ nhìn vào thực tế. Nếu mọi chuyện tốt đẹp, thì họ sẽ hậu thuẫn các biện pháp táo bạo hơn, nhưng đối với các nhà đầu tư ngoại quốc, thì họ cần phải học kiên nhẫn".

Cái thế chẳng đặng đừng là rất có thể phải cần có một bài học cứng rắn nữa trước khi giới lãnh đạo Việt Nam thực sự từ bỏ các lý tưởng kinh tế trong chủ nghĩa Mác Lê mà họ đã nằm lòng.