BBCVietnamese.com

Việt Nam đã dạy cho McCain điều gì?

Phân tích gia Matt Bai, trong bài báo đăng trên International Herald Tribune, viết rằng khoảng thời gian ngồi nhà tù Bắc Việt đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan điểm chính trị của TNS John McCain.

Không chỉ một mình ông John McCain, mà một loạt thượng nghị sỹ Hoa Kỳ từng trải qua cuộc chiến Việt Nam.

Ngoài bốn nhân vật đang tại vị, là John McCain, Chuck Hagel thuộc đảng Cộng hòa; John Kerry và Jim Webb thuộc đảng Dân chủ, còn một loạt các ông từng giữ ghế trong Thượng viện như Bob Kerrey, Max Cleland và Chuck Robb.

Việc giữa các vị này có một mối dây liên hệ đặc biệt là chuyện dễ thấy. Thế nhưng gần đây cuộc chiến Iraq đã làm bộc lộ khác biệt giữa các ông.

Chỉ một mình TNS McCain nay còn tiếp tục ủng hộ cuộc chiến tại Iraq. Trái lại, các ông Kerry, Webb và Hagel nay đang lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ sự tham gia của Mỹ tại nơi đây.

5 năm trong nhà tù Bắc Việt

Một số cựu chiến binh Việt Nam cho rằng sở dĩ có chia rẽ quan điểm như vậy là do ông McCain có trải nghiệm khác hẳn hồi còn ở Việt Nam.

Ông McCain bị bắn rơi rồi bị bắt năm 1967 và ông ngồi tù suốt phần lớn thời kỳ ác liệt nhất, tồi tệ nhất và cũng tốn kém nhất của cuộc chiến.

5 năm ngồi trong Hỏa Lò, cách biệt thế giới bên ngoài, ông không chia sẻ những kinh nghiệm đau thương và thất vọng của nhữngngười lính khác, như các ông Kerry, Webb và Hagel.

Ông có thể cảm thấy căm thù những kẻ đang giam cầm mình, nhưng không thù ghét những người lãnh đạo đã đẩy lính Mỹ vào cuộc chiến.

Bài học lớn nhất mà nhiều cựu chiến binh Mỹ rút ra tại Việt Nam là người ta không thể thắng một số cuộc chiến chỉ bằng súng đạn, bằng việc kéo dài chiến tranh hay tăng quân.

Bài học này lại không phải điều ông McCain đúc kết được sau cuộc chiến Việt Nam.

Khi đại úy McCain từ Việt Nam trở về, ông chọn trường War College danh giá để tiếp tục học tập. Tại đây, ông được ảnh hưởng nhiều từ một số nhà quân sử, đặc biệt là Bernard Fall, người từng chỉ trích mạnh mẽ chiến thuật của Mỹ tại Việt Nam.

Giống như ông Fall, ông McCain cho rằng chiến thuật tìm kiếm và tiêu diệt (search-an-destroy) là sai lầm, và Mỹ chỉ bắt đầu thay đổi được cục diện khi chuyển sang chiếm cảm tình của người dân miền Nam Việt Nam.

Ông McCain chủ trương khuyến khích quân đội Việt Nam Cộng hòa nắm lấy chiến cuộc. Tuy nhiên lúc đó đã quá muộn, vì công chúng Mỹ đã đưa ra lựa chọn của mình.

Trong vai trò nghị sỹ

Khi bắt đầu tham gia nghị trường năm 1983, quan điểm của John McCain về sự tham gia của Hoa Kỳ cũng na ná như chủ thuyết mà sau này cựu Ngoại trưởng Colin Powell đưa ra.

Đó là, nếu như muốn dùng quân đội để can thiệp chấm dứt một cuộc chiến nào đó hay lật đổ một chính phủ nào đó ở bên ngoài, thì phải có sự hậu thuẫn chắc chắn của công chúng Mỹ và phải sẵn sàng sử dụng sức mạnh vượt trội để đạt mục tiêu.

John McCain từng ủng hộ mạnh các chiến dịch của Mỹ ở nước ngoài như tại Grenada năm 1983, hay cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991.

Trong một thời gian, kể từ khi ông trở thành thượng nghị sỹ năm 1987, McCain tỏ ra thận trọng trong việc đưa quân Mỹ vào các cuộc chiến ở bên ngoài.

Tuy nhiên tới thời kỳ xung đột Serbia, khi quân đội Serb tàn sát người Bosnia theo Hồi giáo, thì Thượng nghị sỹ John McCain chính thức khẳng định quan điểm của mình là ủng hộ việc can thiệp bằng quân sự.

Năm 1999, ông dẫn đầu nỗ lực ủng hộ việc đánh bom Serbia để ngăn ngừa thảm họa diệt chủng ở Kosovo.

Trong thời gian tranh cử tổng thống năm 2000, ông McCain chủ trương can thiệp mạnh vào các khủng hoảng nhân đạo bằng quân sự. Cách đánh giá đầy tham vọng của ông về quyền lực của Hoa Kỳ khiến ông trở nên đồng minh của giới tân bảo thủ, tựu quanh một mục tiêu rõ ràng là lật đổ chế độ Saddam Hussein.

Can thiệp hay không?

Tác giả Matt Bai đã có cuộc nói chuyện với thượng nghị sỹ McCain hồi cuối tháng Tư, sau khi ông McCain bị nhiều người chỉ trích về chính sách của ông đối với cuộc chiến Iraq, rằng ông "đã trở nên một nhân vật diều hâu hiếu chiến".

John McCain nói một cách nghiêm trang: "Ai cũng có quyền viết những gì họ nghĩ và nghĩ những gì họ muốn".

"Thế nhưng tôi biết chiến tranh là gì, tôi biết rõ thảm họa chiến tranh. Không ai căm ghét chiến tranh hơn giới cựu chiến binh."

Rõ ràng là các chỉ trích đã làm ông cảm thấy bị thương tổn.

John McCain mô tả bản thân mình như một người theo chủ nghĩa 'lý tưởng một cách thực tế'.

Theo ông, can thiệp quân sự vào Iraq là chuyện cần làm vì Saddam Hussein đã chống lại các giá trị cơ bản của con người.

Trong khi đó, can thiệp vào những nước như Zimbabwe, hay Miến Điện, thì lại phải cân nhắc tới các yếu tố như lịch sử và văn hóa, xem liệu người dân những nơi đó có chào đón người Mỹ như đội quân giải phóng hay lại xem họ như những kẻ xâm chiếm; vì lẽ cả hai nước này đều có một lịch sử thuộc địa khá lâu dài.

Thế còn Iraq thì sao?

Cho dù chính ông đã rung hồi chuông báo động về những thất bại trong cuộc xâm chiếm Iraq, McCain khẳng định rằng chiến dịch tăng quân và chính sách chống nổi dậy mới của Hoa Kỳ đang mang lại kết quả vì nó dựa trên thành phần cơ bản là chiếm cảm tình của người dân.

Theo ông, thắng lợi cuối cùng có thể là đánh đuổi hoàn toàn phiến quân và giảm thiểu thương vong trong lính Mỹ.

McCain cho rằng, bốn năm đầu của cuộc chiến Iraq là thời gian chính sách thất bại giống hệt như những năm 'tìm kiếm và tiêu diệt' trong cuộc chiến Việt Nam.

Tuy nhiên nay nước Mỹ đã có một chiến thuật mới có thể mang lại chiến thắng.

Và bài học mà John McCain rút ra từ Việt Nam nhiều năm trước đây, là khi đã biết cách làm sao để thắng một cuộc chiến rồi thì không thể rút lui trước khi chiến thắng.

Ông cam kết không để điều đó xảy ra.