BBCVietnamese.com

10 Tháng 6 2008 - Cập nhật 09h17 GMT

Nguyễn Giang
BBCVietnamese.com

Truyền thông và xã hội dân sự

Sự quan tâm của dư luận, nhất là làng báo trong nước trước vụ bắt hai đồng nghiệp viết cho Thanh Niên và Tuổi Trẻ đặt ra câu hỏi về sự chuyển biến toàn xã hội Việt Nam.

Đây chỉ là một phản ứng có tính bản năng tự vệ của các nhà báo hay thể hiện một xu hướng tiến tới xã hội dân sự?

Một xã hội văn minh chỉ đến khi lòng ái hữu nghề nghiệp vượt trên các quan hệ gia tộc, bộ lạc, phe đảng hay tiền bạc.

Đoàn kết nghề nghiệp của một số luật sư sẵn sàng bào chữa cho đồng nghiệp “bất đồng chính kiến”, của nông dân khiếu kiện, của công nhân các khu chế xuất cũng có ý nghĩa tương tự.

Việc tìm hiểu sự biến chuyển của khái niệm “xã hội dân sự” và các ví dụ khu vực Đông Nam Á sẽ giúp định hình câu chuyện Việt Nam hiện nay.

Khái niệm ''xã hội dân sự''

Xã hội dân sự như một định nghĩa chính trị học đầu tiên do người thầy của Karl Marx, triết gia George Wilhelm Friederich Hegel nêu ra ở thế kỷ 19.

Với Hegel, đó là xã hội nơi các cá nhân và các nhóm quyền lợi tư sản vừa cạnh tranh, vừa thỏa thuận về không gian sinh hoạt chính trị.

Xã hội dân sự của Hegel có mục tiêu thỏa mãn các quyền lợi của giai cấp tư sản, bên cạnh gia đình (quan hệ tình cảm trực tiếp), và nhà nước (quan hệ vì lợi ích chung).

Chính sự đồng nhất xã hội dân sự cổ điển với hình thái kinh tế tư bản nên các nhà Marxist về sau có ác cảm với khái niệm này.

Nhưng Antonio Gramsci, nhà Marxist nổi danh của Ý trong thế kỷ 20 lại ghép nó vào thành một phần của quốc gia. Ông đề ra mô hình: quốc gia = xã hội chính trị + xã hội dân sự.

Có vẻ như Gramsci công nhận xã hội dân sự là tổng thể các hội đoàn không nằm trong cơ chế của chính quyền, chứ không phải các cá nhân như thời Hegel.

Ảnh hưởng của Gramsci hiện rõ trong việc nhận định khối đối lập dân chủ Đông Âu, đặc biệt là Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan.

Theo Colin Sparks, quan điểm của Adam Michnik, trí thức Ba Lan và Đông Âu cho rằng xã hội dân sự cần tồn tại song song và có đủ các chức năng của một thể chế, chỉ thiếu chức năng quân sự.

Trên thực tế, Công đoàn Đoàn kết tiếp thu kinh nghiệm hoạt động kháng chiến của người Ba Lan qua các thời kỳ bị chiếm đóng để xây dựng cả một hệ thống ngầm, từ công xưởng, trường học, bệnh viện, đài báo bên cạnh hoặc nằm ngay trong lòng các cơ quan của nhà nước cộng sản.

Nhưng cả một xã hội ngoài luồng rộng lớn như Ba Lan là trường hợp hiếm có.

Với trí thức Tiệp Khắc, xã hội dân sự phát triển không từ dưới lên mà từ trên xuống, với hoạt động nêu cao tiếng nói lương tâm của trí thức qua viết sách, dựng kịch, tổ chức triển lãm v.v.

Ở Đông Đức, các nét của xã hội dân sự có xu hướng phục hồi đạo đức Tin Lành, sám hối quá khứ, sinh hoạt phi chính trị và đoàn kết dân tộc Đức nhằm hàn gắn sự chia rẽ Đông Tây.

Tại Liên Xô, dù vẫn chưa có ý kiến thống nhất về thời cải cách Gorbachov, ta có thể tạm cho rằng phản ứng xã hội mang tính nhân đạo với các cựu binh Afghanistan, nhu cầu thông thoáng tin tức, cởi mở văn hóa cũng có các nét của xã hội dân sự.

Riêng tại Phương Tây, xã hội dân sự gần như chỉ là đề tài tranh luận của các trí thức thiên tả.

Xuất phát điểm là khái niệm không gian công (public sphere) được triết gia Đức Jurgen Habermas xác định rõ như không gian mà các công dân có thể tham gia tự do bàn thảo các vấn đề chính trị-xã hội.

Nhưng để có thảo luận dân chủ rộng khắp thì cần vai trò trung gian của truyền thông.

Vai trò của truyền thông

Bởi thế, các trí thức Phương Tây lo ngại rằng đài báo nếu chỉ để cho thị trường tác động sẽ làm méo mó không gian dân sự.

Tinh thần phê phán của công dân và sự quan tâm đến chính trị cũng bị cùn mòn nếu lợi nhuận điều khiển truyền thông.

Theo các nhà nghiên cứu như James Curran, những cơ quan truyền thông công như BBC được duy trì để làm chỗ dựa cho xã hội dân sự có tiếng nói.

Nhờ thế, nền dân chủ không biến thành “bàn tròn” của riêng giới cầm quyền và chủ tư bản.

Sang thế kỷ 21, khi khối cộng sản Đông Âu không còn thì câu hỏi quan trọng với cả hai phần của châu Âu là xã hội dân sự “chống đỡ” thế nào với làn sóng tư bản toàn cầu và sự trỗi dậy của các ý thức hệ tôn giáo.

Cũng trong bối cảnh đó, truyền thông ở những nước chuyển sang kinh tế thị trường tại châu Á là đề tài đáng chú ý.

Nếu lấy Trung Quốc làm một ví dụ ta dễ dàng nhận thấy vị trí của báo chí trong xã hội do đảng cộng sản nắm quyền vào đầu thế kỷ XXI có mấy nét đặc trưng.

Thứ nhất, các biến động sau Chiến Tranh Lạnh không nhất thiết đưa đến dân chủ hóa báo chí ở Trung Quốc như các lý thuyết tự do vẫn nói.

Ví dụ như các phân tích của Triệu Nguyệt Chi, một nhà nghiên cứu người Hoa ở Canada, quá trình thị trường hóa ở Trung Quốc sau 1989 đã biến truyền thông và báo chí thành một khu vực kinh tế đầy lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản nhà nước.

Các nhà báo là thành viên của giới trung lưu mới được hưởng những quyền lợi béo bở và có vị trí xã hội cao không kém gì đồng nghiệp của họ ở Âu-Mỹ.

Vẫn theo Triệu Nguyệt Chi, dù các nhà báo vẫn hướng tới tính chuyên nghiệp (professionalism) và các tiêu chí tự do báo chí gần giống Phương Tây, thực tế là họ sống nhờ thương mại hóa truyền thông.

Bên cạnh nhu cầu tìm kiếm sự thật (không ít nhà báo sẳn sàng trả giá cho các phóng sự chống tham nhũng, lạm quyền), thì nhu cầu thành các ngôi sao truyền thông với lợi nhuận kếch xù cũng rất lớn.

Tuy thế, quá trình thị trường hóa và toàn cầu hóa cũng thay đổi quan hệ giữa đảng cầm quyền và báo chí.

Một mặt, đảng để các thế lực của thị trường và quyền lợi tập đoàn cản trở nhà báo dấn thân vào đề tài nhậy cảm.

Mặt khác, họ bỏ cách đấu tố "tư tưởng sai trái" một cách ồn ào qua truyền thông để nhanh chóng và lặng lẽ ngăn sự lan truyền của các bài trái ý.

Không chỉ tư tưởng dân chủ phương Tây mà ý thức hệ thiên tả kiểu Mao cũng bị ngăn để không tạo nền tảng lý luận cho công nông chống chủ nghĩa tư bản nhà nước.

Theo các phân tích của Triệu Nguyệt Chi và Robert Hackett, báo chí được thị trường hóa trở thành đồng minh đắc lực của đảng.

Cổ vũ cho chuyển biến thị trường theo nhịp độ do đảng điều khiển, truyền thống gián tiếp áp chế khát vọng của công nông và các nhóm xã hội khác.

Người dân có ít cơ hội vươn lên làm công dân mà chỉ đóng hai vai: cung cấp sức lao động cơ bắp và làm người tiêu dùng.

Nhưng toàn cầu hóa thực ra đã khiến quyền lực nhà nước yếu hơn là dư luận vẫn nghĩ, bởi nền tảng công nông của đảng đã mất.

Riêng với Việt Nam, theo thiển ý, vụ bắt hai nhà báo Nguyễn Văn Hải và Nguyễn Việt Chiến đánh dấu một bước ngoặt trong quan hệ đảng với truyền thông, đặc trưng của thời kỳ hậu WTO ở cả Trung Quốc và Việt Nam.

Có vẻ như khi cần đảng sẵn sàng chủ động xác định vị thế ai nắm ai trong quan hệ “hai bên cùng có lợi” với một bộ phận báo chí dù vẫn cần truyền thông để tiếp tục vai trò lãnh đạo đặc biệt của mình.

Câu hỏi là báo chí Việt Nam coi quan hệ quy ước này là lâu bền hay dễ sứt mẻ.

Với các bài riêng lẻ trên blogs, các nhà báo đã tỏ thái độ và xây dựng một không gian nhỏ cho riêng họ.

Nhưng việc tiến tới một xã hội dân sự còn tuỳ vào nhiều yếu tố, nhất là sức mạnh của xu hướng cải cách trong nội bộ chính quyền và ý thức xã hội chung của dân chúng.