BBCVietnamese.com

14 Tháng 7 2008 - Cập nhật 15h14 GMT

Tiến sĩ Robert Topmiller
Gửi cho BBC từ bang Kentucky, Hoa Kỳ

HT Thích Huyền Quang và Giáo hội PGVNTN

Hòa thượng Thích Huyền Quang đã được thế giới ngưỡng mộ vì đã kiên trì cưỡng lại các nỗ lực của đảng Cộng Sản Việt Nam muốn hạn chế quyền tự do tín ngưỡng tại Việt Nam thời hậu chiến.

Trong thập niên 1960, hòa thượng Huyền Quang cũng đã tham gia vào phong trào Phật giáo mà đã đưa đến sự thành lập của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Hồi tháng Sáu năm 1963, trong khi cuộc đấu tranh của Phật giáo chống lại chế độ Ngô Đình Diệm càng lúc càng giành được khí thế, một vị sư già pháp danh Thích Quảng Đức, đã bình thản ngồi kiết già ngay tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan đình Phùng Sài Gòn, mà nay là đường Cách Mạng Tháng Tám-Nguyễn Đình Chiểu, và tự thiêu.

Muốn chiến tranh chấm dứt

Ngài viên tịch với lòng tin rằng ngài sẽ trở thành một vị bồ tát để đánh động lương tâm thế giới về hoàn cảnh tuyệt vọng của các tín đồ Phập giáo tại miền nam Việt Nam.

Hình ảnh đầu tiên của một vị sư tự thiêu đã để lại một dấu ấn không bao giờ phai tàn trong cuộc chiến Việt Nam.

Trong lúc các cuộc biểu tình chống chính phủ càng lúc càng xảy ra liên miên hồi mùa hè năm 1963, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã phản ứng lại bằng biện pháp đàn áp.

Cuối cùng, quân đội đã đứng lên để hạ bệ và giết tổng thống Ngô Đình Diệm trong một cuộc đảo chánh hồi tháng 11 cùng năm.

Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị hạ bệ, những người tín đồ phản chiến trong Phật giáo đã nổi lên như là nhóm đối lập không cộng sản đáng kể tại miền nam Việt Nam từ năm 1963 đến 1966.

Bản chất yêu nước, yêu chuộng hòa bình và trung lập của họ đã thu hút được quá nhiều thanh thế tới nỗi trong một giai đoạn ngắn, họ có đủ khả năng để kéo nhào nội các chính phủ, phủ quyết các vụ bổ nhiệm vào các chức vụ cao và kêu gọi hàng ngàn người xuống đường.

Mặc dù thành công trong việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, nhưng Phật giáo không được tổ chức thực sự hữu hiệu trên khắp nước vào cuối năm 1963.

Chính vì đạo Phật có nhiều tông phái cộng thêm tính chất tự trị của từng ngôi chùa theo truyền thống, cho nên sự thể này đã cản trở rất nhiều các nỗ lực để biến chiến thắng của Phật giáo trước chế độ của ông Ngô Đình Diệm thành một hiệp hội có để khả năng thách thức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và chấm dứt chiến tranh.

Bản chất không tập trung của Phật giáo Việt Nam quả thật mà nói đã đi ngược lại việc thành lập một hội đồng có quyền hạn lan rộng khắp nước, trong lúc các nguyên tắc cơ bản phóng khoáng của đạo Phật tạo ra nhiều tông phái.

Rốt cuộc, các nhà lãnh đạo Phật giáo tạm thời gác qua một bên các chia rẽ ở cấp địa phương, chính trị và giáo điều trong phong trào Phật giáo để có thể thách thức chính quyền.

Mặc dù mạnh về chính trị, phong trào Phật giáo chưa bao giờ đại điện cho đa số các Phật tử trong lúc các sự chia rẽ trong thời hậu chiến đã phản ứng được tình trạng phe phái tiềm ẩn trong đạo Phật.

Giáo hội ra đời

Sau khi nhìn nhận là cần phải có một tiếng nói chung để chống lại chiến tranh và thực hiện các sinh hoạt chính trị và tôn giáo, các nhà lãnh đạo Phật giáo đã loan hồi tháng Giêng năm 1964 về sự ra đời của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (PGVNTN).

Trong lúc chiến sự cũng như tình trạng đàn áp những người yêu chuộng hòa bình gia tăng về cường độ, thì Giáo Hội PGVNTN đã muốn chấm dứt cả chiến sự lẫn các vụ đàn áp.

Vào tháng Hai năm 1969, có một số tín đồ Phật giáo đã khuyên các thanh niên Việt Nam hãy trốn tránh quân dịch, và số tín đồ này đã bị xử án tù nặng vì hành vi phản chiến của họ.

Vào năm 1970, lực lượng an ninh của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã tấn công rất mạnh tay một cuộc vận động cho hòa bình được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chủ xướng.

Một vài tháng sau đó, liên danh Hoa Sen ứng cử vào Thượng Viện đã nhận được số phiếu bầu cao nhất, và đây là kết quả của ý nguyện được Phật giáo nói lên đòi quân đội Mỹ phải rút đi và thành lập một chính thể phục vụ cho hòa bình.

Vào tháng Tám năm 1974, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã tung ra một cuộc vận động kêu gọi chiến sĩ hai bên đừng có bắn giết lẫn nhau, và một số nhà sư đã tự thiêu để thu hút chú tâm của thế giới đến nổi thống khổ của dân chúng Việt Nam.

Cuối cùng, các nhà lãnh đạo Phật giáo đã giúp thu xếp để đưa ông Dương Văn Minh lên cầm quyền trong những ngày cuối của cuộc xung đột Việt Nam.

Chưa kịp vui

Các tín đồ Phật giáo không có nhiều thời giờ để ăn mừng vào khi cuộc chiến kết thúc hồi năm 1975.

Những người chủ mới của đất nước, vì e ngại Giáo Hội PGVNTN, nên đã từng bước một tấn công các thành viên của giáo hội này và nhiều đoàn thể tôn giáo khác với tất cả cường độ mà họ dùng để tấn công thể chế Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ.

Tệ hại nhất, theo quan điểm của Giáo Hội PGVNTN, chế độ mới đã thành lập và kiểm soát Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hồi năm 1981 và chỉ công nhận giáo hội này.

Lẽ dĩ nhiên, đảng Cộng Sản Việt Nam không tiêu diệt được Giáo Hội PGVNTN và từ đó, giáo hội này không ngớt đòi hỏi tự do tín ngưỡng.

Sau khi thực thi chính sách Đổi Mới, đảng Cộng Sản Việt Nam đã nới lỏng chính sách về quyền được thờ phụng.

Nhân dịp này, Hòa thượng Thích Quảng Độ đã công bố một bức thư ngỏ gởi Thủ tướng Võ Văn Kiệt hồi tháng Giêng năm 1992 nói rõ tình trạng đàn áp chính trị và tôn giáo dưới thời cai trị của đảng Cộng Sản.

Cùng năm, Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã trở thành Đệ Tứ Tăng Thống của Giáo Hội PGVNTN cho dù Hà Nội nhất mực ngăn cản.

Ngay sau đó, Hòa Thượng Huyền Quang đã đòi đảng Cộng Sản nhìn nhận sự hiện hữu của Giáo hội PGVNTN, trả lại tài sản của Giáo Hội và thả tự do cho nhiều sư sãi bị quản thúc tại gia.

Qua năm sau, Hòa Thượng Tăng Thống trong một động thái nhằm để nới rộng quyền tự do tôn giáo của người dân, đã đòi đảng Cộng Sản phải tổ chức các cuộc bầu cử tự do và tiến tới thành lập một chế độ chính trị cởi mở. Một lần nữa, Đảng Cộng sản quản thúc ngài, bắt giữ toàn bộ ban lãnh đạo của Giáo hội PGVNTN.

Sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ giữa thập niên 1990, những hạn chế đối với Giáo hội PGVNTN có vẻ dịu đi, đặc biệt khi các tổ chức quốc tế và chính phủ Mỹ gây sức ép buộc Hà Nội giảm bớt hạn chế với Giáo hội này và các nhóm tôn giáo khác.

Tuy vậy, Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ từ chối chấp nhận biện pháp nửa vời, và vẫn đòi hỏi tự do tôn giáo trọn vẹn và dân chủ cho người dân Việt Nam.

Bước vào thế kỷ mới, nhiều người hy vọng sự phồn thịnh và cởi mở hơn trước ở trong nước sẽ khiến Hà Nội tìm những kênh liên lạc mới với Giáo hội PGVNTN.

Năm 2003, Hòa thượng gặp Thủ tướng Phan Văn Khải, người bày tỏ sự sẵn sàng làm việc với Giáo hội.

Để thử sự chân thành của ông Khải, Thích Huyền Quang kêu gọi một cuộc họp của ban lãnh đạo Giáo hội năm 2004.

Đảng đã nhân cuộc họp mà bắt giữ nhiều người, và một lần nữa, quản thúc họ, thường là ở những địa điểm xa xôi. Điều đáng buồn là cả Thích Quảng Độ và Thích Huyền Quang vẫn bị cách ly ở nhà cho đến khi Hòa thượng Thích Huyền Quang qua đời.

Trận chiến quanh ký ức

Cùng lúc đó, một trận chiến quyết liệt về ký ức vẫn dai dẳng ở Việt Nam. Những gì được nhớ, cách gợi nhớ chúng, tiếp tục vô cùng quan trọng cho cả hai phe của cuộc chiến và cho cả những người dân, như các Phật tử, muốn đứng ở giữa.

Đảng Cộng sản muốn chứng tỏ sự độc tôn trong việc thắng Mỹ, và càng đẩy phe Phật giáo sang bên lề. Họ có vẻ là kẻ thua cuộc hai lần trong một nước Việt Nam XHCN vì họ đã không thể chấm dứt chiến cuộc trong thập niên 1960 và rồi lại chứng kiến sự công kích thời hậu chiến của người Cộng sản nhắm vào tôn giáo của họ.

Dẫu vậy, cách họ diễn tả về sự kiện chiến tranh lại có thể gợi nhiều cảm hứng nhất: một phong trào cố gắng chấm dứt cuộc huynh đệ tương tàn thông qua hy sinh và nêu gương đạo đức, tôn vinh ký ức về những ai đã chiến đấu cho hòa bình và bảo vệ đạo giáo của họ.

Nếu đúng như sử gia Huệ-Tâm Hồ Tài xác quyết, “cuộc đấu tranh xung quanh quá khứ là một phần của cuộc đấu tranh để kiểm soát tương lai”, những người Phật giáo có thể đang cố gắng đặt chỗ trong một Việt Nam hậu Cộng sản bằng cách kể một câu chuyện từ lâu bị bỏ qua trong những chuyện kể chính thức về chiến tranh.

Giống như chính Phật giáo Việt Nam, Giáo hội PGVNTN đã chứng tỏ sự kiên cường phi thường trước sự đàn áp.

Một điều trớ trêu, trong khi một số người miền Nam cũ quy kết phong trào Phật giáo hòa bình đã làm họ thua trận, Giáo hội PGVNTN tiếp tục chống lại Đảng Cộng sản – một thành tựu phi thường khi mà các thành viên đã chịu suốt 33 năm trù dập.

Thật khó dự đoán cuộc đối đầu này sẽ chấm dứt thế nào. Nhưng có lẽ Hà Nội sẽ tiếp tục chính sách xung khắc với hoạt động tôn giáo, trong khi Giáo hội PGVNTN, có thể là dưới sự lãnh đạo của Thích Quảng Độ, vẫn chống lại sức ép gia nhập Giáo hội chính thống của Đảng.

Có thể, Giáo hội PGVNTN sẽ động viên các nhóm tôn giáo chống đối bên trong Giáo hội Hòa Hảo và Cao Đài, và các tín đồ Công giáo ngày càng bướng bỉnh tại Cao nguyên Trung phần, cũng đòi hỏi tự do tôn giáo. Hà Nội đã tạo ra một dòng chảy ngầm có khả năng bùng phát trong những nhóm tôn giáo bất mãn.

Thích Huyền Quang, người chứng tỏ sự can đảm suốt mấy thập niên khi ngài đòi hỏi công lý cho người dân theo cách phi bạo lực nhưng cương quyết, là một trong những nhà hoạt động nhân quyền lớn của thế kỷ 20.

Di sản của ngài đi theo bước chân của những nhà truyền bá sự bất tuân dân sự phi bạo động như Henry David Thoreau, Mahatma Gandhi và Martin Luther King, Jr.

Về tác giả:Robert Topmiller hiện là giáo sư dự khuyết (assistant professor) ở khoa Sử, Đại học Eastern Kentucky. Ông lấy bằng tiến sĩ sử học ở ĐH Kentucky năm 1998. Tác phẩm đầu tay, The Lotus Unleashed (ĐH Kentucky, 2002), dựa trên luận án về phong trào đấu tranh Phật giáo miền Nam 1964-66. Đã viết nhiều tiểu luận, gần đây nhất là bài về phong trào Phật giáo phản chiến, in trong cuốn The War that Never Ends (ĐH Kentucky, 2007)

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Quý vị có đóng góp ý kiến xin gửi về [email protected] hoặc sử dụng hộp tiện ích bên tay phải.

...............................................................................

Nguyễn Hồng Quốc, Sài Gòn
Hòa thượng Thích Huyền Quang là một biểu tượng của tinh thần đấu tranh bất khuất cho quyền tự do tín ngưỡng tại VN nói riêng và cả thế giới nói chung.

Ngài xứng đáng được vinh danh để cổ xúy cho tinh thần đấu tranh quả cảm chống lại những thể chế độc tài đã tước đi của người dân những quyền sống cơ bản nhất.