BBCVietnamese.com

28 Tháng 8 2008 - Cập nhật 12h11 GMT

Tiến sĩ Gordon Arnold
Gửi cho BBC từ Massachusetts, Hoa Kỳ

Cuộc chiến Việt Nam và chính giới Mỹ

Trong lúc diễn ra cuộc vận động tranh cử tổng thống ở Mỹ, quá khứ tham chiến ở Việt Nam của ứng viên John McCain vẫn tiếp tục được nhắc đến. BBC xin giới thiệu bài của nhà nghiên cứu Gordon Arnold để lý giải cuộc chiến Việt Nam vẫn còn tác động đến chính trị Hoa Kỳ ra sao:

Cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam chấm dứt hơn 30 năm trước, nhưng di sản cuộc xung đột vẫn ảnh hưởng đến chính sách và chính trị Mỹ.

Để hiểu được sự quan trọng của di sản này, người ta phải quay lại lịch sử. Thật ngạc nhiên, người Mỹ ngày nay thường chỉ hiểu biết hạn hẹp lịch sử của cuộc chiến này, và nói chung, những gì họ biết chỉ mơ hồ và ít ỏi.

Với những người còn quá trẻ, kiến thức về cuộc chiến đôi khi bị lẫn với sự mô tả trong các bộ phim Hollywood. Nó dẫn tới một sự diễn giải bỏ qua những chi tiết quan trọng, những thông tin nền tảng, và thường đi kèm là nhiều hiểu lầm.

Có lẽ trở ngại lớn nhất cho sự hiểu biết của họ là do ký ức cuộc chiến đã “bị Mỹ hóa” hoàn toàn.

 Chúng ta thua ở Việt Nam vì để mất ý chí chiến đấu
 
Thượng nghị sĩ John McCain

Mặc dù chiến tranh diễn ra ở Việt Nam, nhưng người Việt hay cái nhìn của người Việt không được chú ý. Thành ra người Mỹ gần như lúc nào cũng chỉ bàn tới cuộc chiến đã tác động thế nào đến đất nước họ. Người Việt Nam đóng vai trò tương đối nhỏ trong cách người Mỹ nghĩ về sự kiện.

Vì thế có lẽ chẳng ngạc nhiên khi những diễn giải của người Mỹ thường tập trung vào kết cuộc của chiến tranh, mà Mỹ đã bị thua. Từ thập niên 1970, các lãnh đạo chính trị phải vật lộn tìm kiếm sự giải thích thỏa đáng cho sự thua trận.

Di sản cuộc chiến

Trong thập niên 1980, Tổng thống Ronald Reagan nói chiến tranh ở Việt Nam là “chính nghĩa cao cả”, dù cho Mỹ đã không thắng. Theo ông, Mỹ lẽ ra đã thắng nếu quân đội được quê nhà ủng hộ hơn và có tự do hơn khi tiến hành cách đánh.

Quả thực một số lượng lớn người Mỹ hôm nay tin rằng Hoa Kỳ có thể đã thắng lợi. Họ tin chỉ vì đất nước mình thiếu ngoan cường nên đã bị đánh bại.

Quan điểm này vẫn có ảnh hưởng trong chính trị Mỹ, đặc biệt trong phe bảo thủ.

John McCain, ứng viên tổng thống đảng Cộng hòa, trong nhiều năm bày tỏ quan niệm tương tự.

Năm 1998, ông nói: “Tôi tin cuộc chiến có thể thắng được.” Phát biểu năm 2003, ông giải thích thêm: “Chúng ta thua ở Việt Nam vì để mất ý chí chiến đấu, vì không hiểu tính chất cuộc chiến, và vì chúng ta chỉ có những công cụ hạn chế.”

Trải nghiệm cá nhân của ông McCain củng cố suy nghĩ của ông về chiến tranh Việt Nam và những cuộc chiến khác mà Mỹ can dự.

Ông xuất thân từ gia đình chiến binh và là phi công trong cuộc chiến. Khi máy bay bị bắn rơi ở Hà Nội năm 1967, ông bị bắt làm tù binh.

Kinh nghiệm khắc nghiệt của một tù binh ảnh hưởng sâu sắc tới cách nghĩ sau này của ông về các vấn đề quốc phòng và quân sự của Mỹ.

Như nhiều lãnh đạo quốc gia khác của Mỹ, ông McCain chỉ trích cách thức tiến hành chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Ông nghĩ Hoa Kỳ lẽ ra phải có nỗ lực bền bỉ hơn.

Mặc dù ông nói ông trở nên “căm ghét chiến tranh”, nhưng việc sử dụng vũ lực áp đảo, dài lâu có vẻ là trung tâm trong học thuyết quân sự của ông McCain. Và ông đã cổ vũ cho sách lược này tại Iraq và Afghanistan.

Ảnh hưởng với đảng Dân chủ

Tác động của sự can dự của Mỹ ở Việt Nam có hơi khác đối với các lãnh đạo chính trị phóng khoáng ở Mỹ.

Khác với những người bảo thủ, các chính khách phóng khoáng thường cho rằng cuộc chiến có kết quả xấu vì chính ra Hoa Kỳ chẳng nên tham chiến làm gì. Họ nghĩ Mỹ thua trận là vì lỗi lầm của Mỹ.

Trong trường hợp của Barack Obama, ứng viên tổng thống của đảng Dân chủ, ảnh hưởng của cuộc chiến Việt Nam không rõ bằng ông McCain.

Có lẽ là vì ông Obama trẻ hơn ông McCain và không có kinh nghiệm trực tiếp về quân đội.

Tuy nhiên, nếu xem cách ông Obama nói về những cuộc chiến hiện nay của Mỹ, dường như ông chịu ảnh hưởng từ cách nghĩ về cuộc chiến Việt Nam của các chính khách Mỹ mấy thập niên qua.

Điều kỳ lạ là trong nhiều lúc khác nhau, ông Obama dường như thể hiện suy nghĩ tương đồng với cả những người ủng hộ và người phản đối cuộc chiến Việt Nam.

Sự phân tích của ông về cuộc chiến Iraq, cách ông nói về nó, tương tự với ngôn ngữ phản chiến của thập niên 1960 và 1970. Ông thường nói Mỹ lẽ ra không nên dính líu ở Iraq và cần triệt thoái ngay khi có thể.

Nhưng trong trường hợp cuộc chiến ở Afghanistan, ông Obama lại nói giống như những lãnh đạo từng ủng hộ sự can dự của Mỹ tại Việt Nam.

Gần đây ông phát biểu: “Đây là cuộc chiến mà chúng ta phải chiến thắng.” Ông Obama có vẻ tin rằng cuộc chiến ở Afghanistan rất quan trọng cho tương lai an ninh của Mỹ.

Nhưng hơn thế nữa, ông Obama trình ra viễn kiến về nước Mỹ giữa quốc tế mà có nhiều điểm tương tự với viễn kiến của các lãnh đạo Mỹ thập niên 1960 và 1970. Ông cũng nói: “Chúng ta có thể giữ Hoa Kỳ được an toàn bằng cách mở rộng phạm vi an ninh và quảng bá cơ hội ra thế giới. Chúng ta có thể trung thành với các giá trị của mình, và nhờ đó, thúc đẩy các giá trị đó ở nước ngoài.”

Các lãnh đạo Mỹ cũng nói y như vậy khi biện hộ cho sự tham gia của Mỹ tại Việt Nam.

Mỹ là trung tâm?

Như vậy, các chính sách và hành động của Mỹ ở Iraq và Afghanistan vẫn chịu ảnh hưởng của cuộc chiến Việt Nam.

Cả hai đảng lớn của Mỹ vẫn dựa nhiều vào kinh nghiệm ở Việt Nam để định hình chính sách mà họ muốn cổ vũ tại nhiều nơi trên thế giới ngày nay.

Cả hai đảng nói chung tiếp tục nhìn thế giới qua lăng kính mà trong đó, quan điểm của Mỹ chiếm phần trung tâm giữa thế giới.

Ảnh hưởng dai dẳng từ thất bại ở Việt Nam càng hiện rõ trong quan hệ của Mỹ với Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Mối quan hệ đã cải thiện qua năm tháng, nhưng căng thẳng giữa hai nước chưa bao giờ biến mất.

Mặc dù quan hệ ngoại giao được phục hồi trong thập niên 1990, nhiều người Mỹ vẫn hơi nghi ngờ Việt Nam.

Sau cuộc xung đột, một số chính khách Mỹ tập trung chú ý vào số phận của những người lính mà quân đội nói là “mất tích trong chiến trận”.

Họ tin rằng dù cuộc chiến đã kết thúc, Việt Nam vẫn giấu thông tin liên quan những người lính này.

Vấn đề làm chậm lại sự bình thường hóa quan hệ song phương. Vấn đề lính Mỹ mất tích hầu như được giải quyết trong mấy năm gần đây. Sư nghi ngại đã chầm chậm giảm bớt.

Nhưng phần nào sự nghi ngờ mà vấn đề này khơi dậy vẫn còn ở Mỹ. Có lẽ chỉ có thời gian mới xóa hết dấu vết những cảm giác này.

Di sản cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam vẫn là một sức mạnh. Nó đã ảnh hưởng đến cách Hoa Kỳ nhìn và quan hệ với thế giới, cho dù những sự kiện gần đây hơn cũng có ảnh hưởng.

Nhìn về phía trước, chúng ta không biết ảnh hưởng cuộc chiến sẽ giúp định hình tương lai thế nào.

Có lẽ những thế hệ sau này sẽ tái xem xét các vấn đề từ những góc nhìn mới.

__________

Về tác giả: Tiến sĩ Gordon Arnold là giáo sư tại Montserrat College of Art, Hoa Kỳ. Ông là tác giả cuốn sách The Afterlife of America's War in Vietnam (McFarland & Company Publishers, 2006) và Conspiracy Theory in Film, Television, and Politics (Praeger Publishers, 2008). Đây là bài tác giả viết riêng cho BBC Việt ngữ.