17 Tháng 11 2008 - Cập nhật 13h42 GMT
TS Nguyễn Thị Hậu, Viện phó Viện Nghiên cứu Phát triển TP. HCM
Viết riêng cho BBCVietnamese.com
Ngành khảo cổ khu vực Nam Bộ đang kết hợp với các nghiên cứu hệ sinh thái nhân văn, thể hiện tác động qua lại giữa con người và quần thể sinh học, khả năng thích nghi của con người với môi trường sống.
Hiện nay trong nhiều bảo tàng khi trưng bày về Thời Tiền sử, di vật khảo cổ luôn được đặt trong bối cảnh môi trường sinh thái vì chỉ có như vậy người xem mới hiểu được chức năng, công dụng và ý nghĩa của di vật, nhất là công cụ lao động, đồng thời cũng để tăng cường sự hấp dẫn của hình thức trưng bày.
Di vật khảo cổ chính là bằng chứng, là sự phản ánh gián tiếp của môi trường sinh thái và những biến đổi của tự nhiên, như được minh chứng qua các thành tựu nghiên cứu về khảo cổ học Thời đại đồ đá Việt Nam.
Khi nghiên cứu tiền sử Việt Nam cũng như Đông Nam Á, khảo cổ học hết sức chú ý đến Hệ sinh thái ở khu vực này được phản ánh qua lối sống, cụ thể trong hoạt động săn bắt hái lượm của cư dân tiền sử ở đây.
Căn cứ vào tàn tích thức ăn động thực vật, khảo cổ học nhận thấy người cổ đã sử dụng nhiều loại thức ăn nhưng mỗi loại một ít, lại tùy theo mùa và thức ăn thực vật khá phong phú.
Hệ sinh thái phổ tạp
Trong khi đó thức ăn động vật có được do hoạt động săn bắt không nhiều, phổ biến các loại động vật thủy sinh nhất là các loài nhuyễn thể nước ngọt, nước lợ…
Khảo cổ học gọi đây là lối hái lượm theo phổ rộng.
Từ đặc điểm này có thể nhận dạng hệ sinh thái Đông Nam Á – Việt Nam là hệ sinh thái Phổ tạp với đặc trưng chỉ số đa dạng cao, số loài nhiều nhưng số cá thể ít, thực vật nổi trội hơn động vật về giống loài và số lượng, động vật thủy sinh chiếm ưu thế.
Hệ sinh thái Phổ tạp phân bố ở khu vực nhiệt đới khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, môi trường sông nước phổ biến…
Trong môi trường sinh thái này, từ lối sống hái lượm theo phổ rộng và trội vượt hơn săn bắt, khi tiến lên nền kinh tế sản xuất thì cư dân ở đây sẽ phát triển một nền nông nghiệp đa canh, tức là thuần hóa nhiều loại thực vật một lúc và trồng trọt sẽ trội vượt hơn chăn nuôi.
Quá trình phát triển các nền văn hóa cổ Việt Nam từ thời đồ đá như văn hóa Sơn Vi, Hoà Bình, Bắc Sơn, Hạ Long, Quỳnh Văn, Đa Bút, Hoa Lộc, Bàu Tró…đến các nền văn hóa thời kim khí như Đông Sơn, Sa Huỳnh, Đồng Nai là sự thể hiện sinh động cho quá trình này.
Tiểu vùng sinh thái
Nam bộ có hai tiểu vùng sinh thái tự nhiên, cũng là hai tiểu vùng văn hóa phát triển liên tục từ thời cổ cho đến nay:
- Đông Nam bộ gồm lưu vực Đồng Nai, Sài Gòn, sông Bé, Vàm Cỏ với các dạng địa hình – hệ sinh thái đồi núi rìa cao nguyên, châu thổ cũ và khu vực rừng ngập mặn ven biển.
- Tây Nam bộ chủ yếu là châu thổ sông Cửu Long mới và đang thành tạo, với tứ giác nước Long Xuyên – Đồng Tháp Mười kéo dài tới vùng ngập mặn bán đảo Cà Mau.
Sự phân chia tiểu vùng này tất nhiên chỉ là tương đối, với “ranh giới” chuyển tiếp Đông – Tây Nam bộ là Long An.
Tuy ‘ranh giới” chỉ là tương đối nhưng trên quan niệm sinh thái nhân văn thì hai tiểu vùng sinh thái – văn hóa trên không thể gộp chung mà rõ ràng cần được nhìn nhận như một “phức hệ văn hóa” trên cơ sở sự đa dạng của địa hình – sinh thái.
Văn hóa Đồng Nai
Cho đến nay, thành tựu quan trọng nhất của Khảo cổ học Tiền-Sơ sử Nam bộ, là việc nghiên cứu và xác lập văn hoá Đồng Nai.
Sau thời đại Đồ Đá mà dấu vết phát hiện được còn khá ít ỏi, từ khoảng 4000 năm cách nay ở lưu vực sông Đồng Nai xuất hiện một lớp cư dân mới thuộc thời đại Kim khí - chủ nhân của văn hóa Đồng Nai.
Sự phát triển của văn hóa Đồng Nai đã làm cho miền Đông Nam bộ trở thành một trong 3 trung tâm văn hóa lớn của Việt Nam trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên: Đông Sơn ở miền Bắc – Sa Huỳnh ở miền Trung – Đồng Nai ở miền Nam.
Văn hóa Đồng Nai là bước mở đầu cho truyền thống văn hóa phát triển rực rỡ vào khoảng thời gian trước - sau Công nguyên và sẽ trở thành nguồn gốc bản địa của một văn hóa cổ ở Nam bộ: văn hóa Óc Eo.
Văn hóa Óc Eo
Các nghiên cứu Tiểu vùng văn hóa Tây Nam bộ chủ yếu tập trung vào văn hóa Óc Eo với trung tâm là tứ giác Long Xuyên, vùng trũng ngập lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long.
Trong thời kỳ hình thành và phát triển của văn hóa Óc Eo kéo dài từ thế kỷ I đến thế kỷ VII, khu vực Óc Eo – Ba Thê được nhìn nhận là một cảng biển – đô thị của vương quốc cổ Phù Nam, trạm dừng chân quan trọng trên tuyến đường biển nối liền Nam Á và Bắc Á với hai trung tâm văn minh lớn của nhân loại là Ấn Độ và Trung Hoa.
Để có thể tồn tại và phát triển, cư dân Óc Eo đã tạo ra những điều kiện sống thích hợp, chấp nhận và khai thác những mùa nước nổi, nước lên theo chu kỳ hàng năm.
Điều thú vị nhất là dù ở môi trường địa hình nào thì cư dân cổ toàn Nam bộ vẫn chung một loại hình di vật độc đáo: bếp gốm – cà ràng, vật dụng của cư dân sống trên nhà sàn và trên ghe xuồng.
Từ đó hình thành hai phương thức kinh tế chủ yếu là làm ruộng ở vùng thấp miền Tây sông Hậu – miệt ruộng và làm vườn ở vùng cao ven hạ lưu sông Tiền – văn minh miệt vườn.
Tính chất cởi mở, giao lưu rộng rãi là đặc điểm xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế – văn hóa Nam bộ ít nhất là từ thời văn hóa Óc Eo đến nay.