![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Iraq: Bóng ma Việt Nam? | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chính sách mới của tổng thống Bush về Iraq, trong đó có thể có kế hoạch tăng quân số thêm 20.000 - đang gợi nhớ lại cuộc chiến Việt Nam vì dường như có sự tin tưởng rằng cố gắng thêm một lần nữa sẽ giải quyết xong mọi chuyện. Chính sách này chứa đựng một số mâu thuẫn tiềm tàng giữa hy vọng có kết quả nhanh và chiến lược 'mưa dầm thấm đất' mà quân đội Mỹ hay sử dụng để đối phó với quân nổi dậy. Kế hoạch mới nghe nói do tướng David Petraeus, chỉ huy mới của quân Mỹ tại Iraq, khởi thảo. Báo chí sử dụng từ 'tăng quân' hàm chỉ một quyết định cấp tốc ngắn hạn, thế nhưng ý nghĩa này xem ra cũng trái với quan điểm của ông Petraeus. Lịch sử chẳng bao giờ lặp lại, và những gì xảy ra tại Việt Nam chắc sẽ không xảy ra ở Iraq. Thế nhưng cũng đáng nhắc lại vài nét tương đồng. Thoạt đầu là nhận thức rằng Hoa Kỳ chưa chiến thắng. Bản thân ông Bush cũng thừa nhận điều này. Thứ hai, chính sách Mỹ đã thực hiện ở Việt Nam là chuyển giao trách nhiệm cho chính phủ địa phương ngay giữa khi chiến sự còn tiếp diễn chứ không phải sau khi kết thúc cuộc chiến; thì nay cũng lặp lại. Chính sách này từng được gọi là Việt Nam hóa chiến tranh. Thứ ba, Washington dường như vẫn tin rằng cứ tăng quân là giúp giải quyết vấn đề. Thứ tư, sự hoài nghi của người dân dường như tồn tại trong cả hai cuộc chiến. Thứ năm nữa, cả ở Việt Nam và Iraq ông tổng thống phải viện tới một nhóm ở bên ngoài. Trong trường hợp Việt Nam, nhóm đó có tên Các nhà thông thái. Và cũng như Nhóm Nghiên cứu Iraq, nhóm này chủ trương chính sách mà mục tiêu cuối là rút quân. Vai trò của ông Bush Tuy nhiên cũng có một số điểm khác nhau chính yếu. Chiến tranh Việt Nam có quy mô lớn hơn rất nhiều. Tại Việt Nam, Mỹ triển khai tới hơn nửa triệu quân. Số quân này phải đương đầu với quân đội Bắc Việt và Việt Cộng. Nhiệm vụ của họ khó khăn hơn nhiều. Rồi phải nói tới vai trò của tổng thống Bush. Ông Bush đã có quyết định trái với khuyến cáo của Nhóm Nghiên cứu Iraq là nên rút quân càng sớm càng tốt. Ngược lại, ông dường như muốn tăng quân số, điều chứng tỏ ông nhất quyết không để xảy ra một Việt Nam thứ hai. Khi trước các lãnh đạo Hoa Kỳ tin rằng nếu miền Nam Việt Nam thất thủ thì cộng sản sẽ chiếm lĩnh toàn bộ Đông Nam Á. Nay ông tổng thống Bush cũng tin là nếu mất Iraq thì phe Hồi giáo cuồng tín sẽ thắng thế. Cuốn hồi ký của tổng thống Lyndon Johnson, The Vantage Point, nay vẫn còn tính thời sự. Trong cuốn này ta thấy xung đột giữa lòng tự tin và sự ngờ vực, dẫn tới việc các khả năng ngày càng hạn chế. Thời điểm bản lề quyết định cuộc chiến Việt Nam có lẽ là năm 1968. Tháng Một, quân đội miền Bắc và lực lượng Việt Cộng tiến hành tổng tiến công Tết Mậu thân. Tuy thất bại, cuộc tấn công này đã gây thiệt hại nặng nề cho phía Mỹ, như nhận xét của phó tổng thống Hubert Humphrey với tổng thống Johnson. Tướng William Westmoreland đòi tăng viện và được chấp thuận. Ông Johnson viết trong hồi ký: "Ông ấy tin rằng lợi dụng tình hình hiện tại có thể rút ngắn cuộc chiến." Bản thân Lyndon Johnson cũng từng hy vọng rằng chính thể miền Nam Việt Nam có thể làm được nhiều việc hơn, "chia sẻ nhiều hơn cái gánh nặng chinh chiến ở Việt Nam" với quân Mỹ. Tuy nhiên trong thâm tâm, ông Johnson hoài nghi về tương lai và chẳng bao lâu sau đó, ông tuyên bố quyết định không tái tranh cử chức tổng thống Mỹ. Đến lúc phải ra đi Hồi ký của Lyndon Johnson gợi lại cho chúng ta niềm lạc quan vô căn cứ mà ban lãnh đạo Hoa Kỳ nuôi dưỡng trong thời gian đó. Ông viết ngày 26 tháng Ba 1968: "Tướng Creighton Abrams [người phó cho ông Westmoreland, sau đó đã thay ông] đã báo cáo với tôi một cách chi tiết về tình hình chiến lược và tỏ ra khá lạc quan vào những tiến bộ mà quân đội (Nam) Việt Nam đạt được." Ông Johnson lo rằng Nhóm các nhà thông thái - vốn đề ra chính sách của nước Mỹ sau Thế chiến Hai và cũng cung cấp lời khuyên cho ông tổng thống trong thời kỳ cuộc chiến Việt Nam -"đã bị nghe quá nhiều tin tức bi quan từ báo chí". Tuy nhiên, các nhà thông thái cũng có sự bi quan riêng của họ. Ông Johnson nói đúng vào ngày tướng Abrams báo cáo một cách lạc quan thì ông Dean Acheson, cựu Bộ trưởng Ngoại giao, lại cho biết ông cảm thấy "nếu không thực hiện được những gì mà chúng ta đã kế hoạch thì chúng ta nên rút". Đa số các nhà thông thái đồng ý với ông này. Và thế là chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh xuất hiện và được Richard Nixon, người thắng cử tổng thống vào cuối năm 1968, thúc đẩy thêm. Một cuốn sử về phát triển của quân đội Nam Việt Nam do thiếu tướng James Collins, một sử gia quân đội hàng đầu của Mỹ, viết năm 1991 đã thuật lại quyết định của chính phủ Hoa Kỳ: "Ngày 16 tháng Tư [1968] thứ trưởng Quốc phòng đã ra lệnh lên kế hoạch dần chuyển giao trách nhiệm cho quân đội Nam Việt Nam." Sau nhiều diễn biến khác nhau, Mỹ đã thực sự rút quân vào năm 1973. Ngày 30 tháng Tư 1975, xe tăng Bắc Việt tiến vào Sài Gòn và quân đội Việt Nam Cộng Hòa thua trận. Chính sách Việt Nam hóa đã cho thấy những hạn chế của nó. ======================================= Catfish, Tokyo, Japan Lê Thịnh, TP HCM Tích Hoàng Ở Việt Nam thì chủ nghĩa CS xâm nhập mượn danh nghĩa bài phong kiến, đả thực dân, để thiết lập một xã hội vô sản với chiêu bài "Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc" có lợi cho sự bành trướng của khối CS từ tài nguyên cho đến chiến lược toàn cầu trên bình diện Đông Nam Á. Nhưng ở Iraq Mỹ ỷ quân đông vũ khí mạnh, nên sai lầm muốn công khai xoá sạch tàn tích cũ ngay lập tức. Ở Việt Nam CS khôn ngoan, dùng VN đánh VN, tùy khả năng ứng biến, dàn xếp chiếm trước một nửa, rồi từ đó làm bàn đạp nuốt trọn, dưới danh nghĩa thống nhất VN. Cho nên dân Iraq mặc dù nhiều sắc tộc và chia rẽ nhưng nhìn ra ngay Mỹ là quân xâm lăng, còn dân VN chỉ thấy trước mắt CS là những người VN, mặc dù họ xúi dục dân VN chống phá lẫn nhau, nhưng vẫn tưởng họ có công thống nhất, và an phận để CS cai trị. Nơi nào không thể lợi dụng danh nghĩa chống xâm lăng thì CS không thành công, còn nơi nào không thể mượn danh nghĩa chống khủng bố Mỹ khó lòng can thiệp. Hiện nay Mỹ đang bị sa lầy ở Iraq, nhưng CSVN thì lại đang hưởng lợi "một mình một cỗ", vì CS quốc tế đã cáo chung, họ muốn vỗ ngực là kinh tế thị trường hay CS tiên tiến cũng được. Trung, Cần Thơ Tôi không có số liệu đánh giá cái lợi của Mỹ ngày nay ở những nước khu vực Đông Nam Á như Philipin, Singapore, Malaysia...nhưng tin rằng nó rất lớn. Qua đó, theo tôi nghĩ, Mỹ đã có được cái họ muốn và Trung Quốc cũng thế, duy chỉ có anh Liên Xô, chắc đi sai nước cờ, mất nhiều hơn được.
Nhiều người trong chúng ta nghĩ nhiều về trận Mậu Thân, Mùa hè đỏ lửa 72, Hiệp định Paris và Mùa xuân 75 mà không để ý đến sự kiện Tổng thống Mỹ thăm Trung Quốc. Tôi không am tường lắm nhưng thật sự không thể nghĩ đó chỉ là cuộc viếng thăm bình thường, xã giao. Muốn " bơi ra biển lớn" phải có cái đầu như Mỹ hay Trung Quốc. Người VN chúng ta, thân cộng hay chống cộng, phải khiêm tốn học họ thôi! Trở lại vấn đề Iraq, theo tôi, Bush không sai nước cờ mà chỉ đi những nước không hay. Và, tất nhiên, người chơi dở ít sẽ thắng người chơi dở nhiều. Và lịch sử Mỹ mãi ghi danh về những người làm cho nước Mỹ phồn thịnh; nguời Mỹ sẽ vẫn làm những việc mà cha ông họ đã làm để Mỹ cứ mãi mạnh. Nếu không thì không có nước Mỹ vì cha ông họ đã bị thổ dân nướng hết rồi. Vấn đề còn lại là chúng ta (mọi thành phần) chơi với Mỹ và Trung Quốc như thế nào để lịch sử lưu danh và làm đường cho con cháu đi mà thôi! Minh Mr Mê Muội, HN Ý chí của dân VN là thống nhất đất nước (Ô. Hồ và Diệm đều có mục đích đó nhưng sử dụng khác nhau phương tiện mà thôi). Nay VN đã thống nhất, người VN sao lại cứ hằn học về cái được của CS hay cái được của VNCH. Lịch sử sẽ phán xét. Đừng nên hàm hồ theo những kẻ kích động rồi lại xảy ra nồi da xáo thịt khổ dân. Nguyễn T, Ottawa NVN, Hà Nội Cao Hau, Cali Muốn làm được như vậy mà không bị thế giới chỉ trách thì phải tạo ra 1 kẻ cầm đầu bù nhìn để Mỹ điều khiển. Ngày xưa ở Việt Nam Mỹ đưa lên tổng thống Ngô Đình Diệm, và ở Iraq cũng chính Mỹ đưa lên Saddam Hussein. Thế rồi tổng thống Ngô Đình Diệm không chịu làm theo những gì Mỹ muốn nữa thì Mỹ lật đổ và giết chết tổng thống Ngô Đình Diệm. Trường hợp của tổng thống Saddam Hussein cũng chẳng khác gì mấy. Sau đó ở Việt Nam Mỹ đưa lên Nguyễn Văn Thiệu, còn ở Iraq thì Mỹ đưa lên Nouri Maliki.
Tinh thần của người dân Iraq cũng chẵng thua gì dân Việt Nam đâu. Thế rồi kết quả ở Việt Nam là Mỹ phải rút tay với khoảng 58 ngàn lính Mỹ thiệt mạng. Còn ở Iraq thì sẽ ra sao? Tôi tin là cũng chẵng khác gì mấy. Jos Nguyen, Westminster Nguyễn Thu, TP HCM Trần Trung, TP HCM Đặng, TP HCM Ý kiến của tôi là Hoa Kỳ nên rút Quân và không gây thêm thù hận ở Iraq làm gì, vì nó cũng có thể nói là đổ thêm dầu vào lửa. Theo tôi cách tốt nhất là nên Viện Trợ cho Iraq và tổ chức huấn luyện dài hạn, nhưng không tham chiến bằng bộ binh nhưng ngược lại nên yểm trợ tối đa bằng Không Quân. Phan Dự, Renton Cả hai lực lượng này khởi đầu đều áp dụng chiến thuật đánh du kích đối phương và khủng bố dân chúng. Tuy nhiên chiến tranh ở VN thì CS là lực lượng có hậu phương miền Bắc,có lãnh tụ và quan thày CS quốc tế công khai yểm trợ, còn chiến tranh ở Iraq người Mỹ chưa nhận rõ ai là lãnh tụ nhóm chống đối, đâu là căn cứ địa yểm trợ, và những nước nào công khai tiếp viện, nên rất khó thương thuyết. Có lẽ dân Iraq cũng chưa rõ khi quân Mỹ rút đi nếu mà chính quyền Iraq hiện thời sụp đổ thì chế độ nào sẽ cai trị, quân đội, công an, cảnh sát nào sẽ bảo vệ an ninh lãnh thổ Iraq, cho nên người ta cứ nói giống nhưng không thể nào giống hoàn toàn. Người Mỹ chỉ có thể trở lại giao hảo với Iraq khi những giáo chủ Hồi giáo cuồng tín bị dân các nước Hồi giáo hạ bệ, giống như các giáo chủ Mác Lê bị hạ bệ thì Mỹ và Việt Nam, Trung Quốc mới có thể gần gũi nhau hơn. Nguyen Viet, Đà Nẵng Michael Tran, USA Trần Quốc Tuấn, Nam Định Quay lại công cụ chiến tranh, binh pháp Tôn Tử có dạy: "Nếu chiến tranh là VÔ ĐẠO, thì sẽ bị nhiều người phản đối, chống lại, ... và cuối cùng cuôc chiến tranh vô đạo sẽ thất bại". Tôn Tử cũng dạy rằng "việc đem một đội quân khổng lồ đi viễn chinh là hạ sách, vì "nước xa khó cứu được lửa ở gần", và phải tốn nhiều công sức lắm lắm. Mặt khác cuộc chiến càng kéo dài, càng tốn kém, càng phân tán nhân tâm. Mỹ đã có bài học ở Việt Nam rồi đó thôi? Hay người Mỹ luôn mong muốn có một vài điểm nóng trên thế giới để tiêu khiển và làm giàu? Có vẻ là như vậy, vì dầu mỏ là mặt hàng chiến lược, mặt hàng "HOT" hiện nay. Các công ty dầu của Mỹ lãi bao nhiêu tỷ đô la rồi? Còn sinh mạng của vài ngàn chú lính ư, rẻ lắm lắm, vài chục nghìn đô la chứ! mấy? bằng mấy thùng dầu thôi mà!!! Người ta toàn tuyển trai tráng, trẻ tuổi, non dạ đi đánh nhau, chứ có ai tuyển người ngoài 30, 40 tuổi đi đánh nhau đâu? Trẻ tuổi thì dễ bị lừa hơn đúng không? Người Mỹ đích thực rồi sẽ lên tiếng, sẽ yêu cầu chính phủ Bush mang con em họ nguyên vẹn về nước cho mà xem. Chỉ có người dân Iraq là thiệt thòi nhất, vì dầu thì bị rút kiệt, cơ sở hạ tầng bị tàn phá (muốn xây dựng lại, lại phải cắp cặp đi vay WB!!!), lại phải đào bới tài nguyên mà bán, lại phải "đẽo cày giữa đường" mà thôi. Dang, HCMC Ý kiến của tôi là Hoa Kỳ Hoa Kỳ nên rút quân và không gây thêm thù hận ở Iraq làm gì, vì nó cũng có thể nói là đổ thêm dầu vào lửa. Theo tôi cách tốt nhất là nên viện trợ cho Iraq và tổ chức huấn luyện dài hạn, nhưng không tham chiến bằng bộ binh, ngược lại nên yểm trợ tối đa bằng không quân. Phan Dự, Renton Tuy nhiên chiến tranh ở VN thì CS là lực lượng có hậu phương miền Bắc,có lãnh tụ và quan thày CS quốc tế công khai yểm trợ, còn chiến tranh ở Iraq người Mỹ chưa nhận rõ ai là lãnh tụ nhóm chống đối, đâu là căn cứ địa yểm trợ, và những nước nào công khai tiếp viện, nên rất khó thương thuyết. Có lẽ dân Iraq cũng chưa rõ khi quân Mỹ rút đi nếu mà chính quyền Iraq hiện thời sụp đổ thì chế độ nào sẽ cai trị, quân đội, công an, cảnh sát nào sẽ bảo vệ an ninh lãnh thổ Iraq, cho nên người ta cứ nói giống nhưng không thể nào giống hoàn toàn. Người Mỹ chỉ có thể trở lại giao hảo với Iraq khi những giáo chủ Hồi giáo cuồng tín bị dân các nước Hồi giáo hạ bệ, giống như các giáo chủ Mác Lê bị hạ bệ thì Mỹ và Việt Nam, Trung Quốc mới có thể gần gũi nhau hơn. Tue Mai, Vũng Tàu Và ở VN điều đó đã xảy ra .Tưởng cũng nên nhớ rằng ở VN không những rút quân mà cả giảm dần viện trợ rồi cắt luôn trong khi đối phương của VNCH thì ngược lại, dẫn đến sự bức tử của miền Nam 1975. Ông Bush có được ai cố vấn sự việc này chưa? Để ông ta hành xử hơp lý với Iraq ngõ hầu tránh lăp lại nhưng gì đã xảy ra tại VN? Võ Phong, TP HCM Brucek Nguyen Sơn, Hà Nội Phan Vũ, Westminster, USA Nên nhớ du kích chiến không thể làm sụp đổ một chế độ: Trận Mậu thân 1968 và Ortega ở Nicaragua. Reynolds và các sử gia Mỹ đều có nhiều sai lầm vì là người ngoài cuộc. Năm 1973 Nam Việtnam đang thắng, thì Đảng Dân chủ cắt viện trợ. Iraq chỉ có 2 tỉnh trong 17 tỉnh bị đạt bom, cũng những Dân chủ quen thuộc yêu cầu rút quân. Cường, Seattle, USA | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||