Cách Hong Kong ứng phó với các trận lở đất chết người
Nguồn hình ảnh, Chính quyền Hong Kong
- Tác giả, Matthew Keegan
- Vai trò, BBC Future
"Sạt lở luôn xảy ra nhanh như chớp vậy, chỉ cần vài giây thôi là đủ để gây ra thảm họa rồi."
Michael Lau, 63 tuổi, chia sẻ với giọng run run về một trong những trận lở đất gây chết chóc kinh hoàng nhất ở Hong Kong trong suốt 50 năm qua mà ông tận mắt chứng kiến hồi còn nhỏ.
Vào một ngày oi nóng tháng 6/1972, Lau khi đó 13 tuổi, sống ở tầng hai chung cư nhà ở xã hội thuộc khu dân cư Sau Mau Ping, đã không thể ra ngoài chơi bóng bàn với bạn bè như mọi khi do trời mưa to.
"Tù cẳng nên tôi đành ra ban công ngồi," ông nhớ lại. "Bỗng dưng, ở phía đối diện, tôi thấy mái nhà bay vèo vì đất đá đang sạt lở xuống sườn đồi gần đó. Nhà cửa trượt xuống dốc cùng với bùn đất."
Lau đã bị sốc không thốt nổi thành lời. "Tôi chỉ nhớ thấy cánh tay mọi người cố giơ lên khỏi bùn đất. Toàn thân họ nhuốm máu. Họ giơ tay vì muốn mọi người đến cứu. Cả xe cộ cũng bị cuốn trôi đi cùng với sạt lở. Mọi người sau đó phải cố gắng đào bới để đưa họ ra."
Tổng cộng 71 người thiệt mạng bởi trận lở đất hôm đó, trong đó có nhiều trẻ em. Lau và gia đình sống sót, nhưng nhiều người mà ông quen biết đã không được may mắn như vậy. "Tất cả bạn bè mà tôi thường chơi bóng bàn cùng đều thiệt mạng trong trận lở đất," Lau nói.
Hiện trường thảm họa năm xưa giờ là Công viên Tưởng niệm Sau Mau Ping, với các băng ghế dài ở chân ngọn đồi bao bọc bởi các khu nhà ở cao tầng.
Nguồn hình ảnh, Chính quyền Hong Kong
Trong thời gian từ thập niên 1950 đến 1970, Hong Kong trải qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và dân số tăng gấp đôi. Nhiều người sống trong các ngôi nhà và túp lều lụp xụp dựng trên sườn đồi.
Sự kết hợp của phát triển đô thị và địa hình đồi dốc của thành phố kéo theo nguy cơ sạt lở. Nhưng thời đó chưa có các cảnh báo sạt lở, và một số trận lở đất kinh hoàng thảm khốc vào thập niên 1970 đã gây ra thiệt hại lớn về người và của.
Năm 1972 là năm đặc biệt tang thương, với 156 người thiệt mạng. Hai trong số những trận lở đất nghiêm trọng nhất của thành phố, Sau Mau Ping và Đường Po Shan, xảy ra cùng ngày, giết chết 138 người.
Hầu hết các vụ sạt lở ở Hong Kong làm chết ít người hơn thế nhiều lần, nhưng thành phố vẫn phải chứng kiến một con số không nhỏ các sự kiện đau lòng tương tự trong nhiều năm, với con số thiệt mạng hơn 400 người từ năm 1947 đến năm 2008.
Tuy nhiên, kể từ thập niên 1970, thành phố là nơi tiên phong trong việc tìm cách giảm thiểu các nguy cơ sạt lở.
Đây là nơi đầu tiên thiết kế và vận hành hệ thống cảnh báo sớm nguy cơ sạt lở, được ra mắt vào năm 1977 để báo động thành phố khi hệ thống phát hiện ra có nhiều khả năng sẽ xảy ra sạt lở do mưa lớn.
Con số thương vong vì lở đất giảm đáng kể từ giữa thập niên 1980, và Hong Kong không có thêm trường hợp nào thiệt mạng vì lở đất kể từ năm 2008.
Hệ thống cảnh báo sạt lở này kể từ đó đã tạo cảm hứng để người ta thiết kế và vận hành trên toàn thế giới các hệ thống cảnh báo sớm sạt lở, như ở Brazil, San Francisco, Na Uy và Nhật Bản, theo Luca Piciullo, nhà nghiên cứu tại Viện Kỹ thuật Địa chất Na Uy.
Hong Kong vẫn chưa thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro sạt lở, và giờ đang phải đối mặt với viễn cảnh các trận mưa lớn ngày càng trở nên dữ dội hơn do biến đổi khí hậu.
Các nhà khoa học nói rằng mưa càng lớn sẽ càng dễ dẫn đến nhiều trận sạt lở hơn trên toàn cầu, đặc biệt là ở vùng núi băng tuyết. Nhưng các kỹ sư Hong Kong vẫn đang tiếp tục công cuộc đổi mới, và giờ đây họ dự định sử dụng trí tuệ nhân tạo để thiết kế hệ thống cảnh báo sớm nguy cơ sạt lở tân tiến nhất của thế giới.
Lở đất xảy ra khi sự ổn định của sườn dốc bị ảnh hưởng bởi lượng mưa lớn, động đất, núi lửa phun trào hoặc thậm chí bởi yếu tố con người, khiến cho đất đá hoặc bùn trôi trượt xuống theo triền dốc.
Tình trạng sạt lở có thể xảy ra bất cứ nơi đâu trên thế giới, và là hiện tượng địa chất phổ biến nhất. Sạt lở ảnh hưởng tới khoảng 4,8 triệu người và gây ra 18.000 ca tử vong, tính từ năm 1998 đến năm 2017.
Hong Kong đặc biệt dễ bị lở đất do địa hình đồi núi - 60% đất liền là vùng núi - và mật độ dân số rất cao. Hầu hết các vụ sạt lở ở đây xảy ra trong hoặc sau mưa bão, với trung bình 300 vụ sạt lở mỗi năm.
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Phục hồi sau thảm họa chưa bao giờ là việc dễ dàng. Nhưng các vụ sạt lở tàn khốc năm 1972 đã tạo động lực cho sự hình thành Văn phòng Kỹ thuật Địa chất Hong Kong (GEO), xét trên phạm vi toàn cầu, đây vẫn là một trong những hệ thống do nhà nước vận hành có hoạt động tích cực nhất về giảm thiểu rủi ro sạt lở và đảm bảo an toàn cho các vùng đồi dốc.
Cách tiếp cận của GEO đối với việc giảm nguy cơ sạt lở trong những năm 1970 quả là rất "sáng tạo và mang tính tiên phong", Piciullo nói.
Tại thời điểm đó, phương pháp phổ biến nhất là tập trung vào tính ổn định kết cấu của triền dốc, ông nói. Nhưng cách tiếp cận của Hong Kong rất khác biệt: tập trung vào việc cảnh báo đến quan chức thành phố, các đơn vị ứng phó đầu tiên và dân cư thuộc khu vực có khả năng cao bị sạt lở do mưa lớn, theo đó đã thiết lập nên hệ thống đầu tiên trên thế giới cảnh báo nguy cơ sạt lở trong khu vực.
Trong hơn 40 năm, một trong những chương trình thành công nhất của GEO là hệ thống cảnh báo đất truồi.
Cảnh báo được phát đi trong những giai đoạn mưa lớn để báo động dân chúng về hiểm họa sạt lở có thể xảy ra. Cảnh báo được phát định kỳ đều đặn trên đài phát thanh đồng thời với bản tin thời sự, cùng với khuyến nghị các cách phòng tránh công chúng nên làm theo, chẳng hạn như tránh xa các đoạn dốc đứng và hủy bỏ các cuộc hẹn không thiết yếu. Những người đi xe hơi được yêu cầu tránh các vùng đồi núi hoặc các đoạn đường có cảnh báo đất truồi.
Nguồn hình ảnh, Chính quyền Hong Kong
GEO kết hợp nhiều nguồn dữ liệu để quyết định có nên đưa ra cảnh báo hay không.
Dữ liệu lượng mưa theo thời gian thực được thu thập bởi một mạng lưới máy đo lượng mưa đặt tại nhiều nơi trong thành phố, trong khi Đài Quan sát Hong Kong sẽ đưa ra các dự báo về lượng mưa sắp đổ xuống trong thời gian vài giờ đồng hồ tiếp theo.
Các dữ liệu này được so sánh với dữ liệu về mối tương quan giữa các trận mưa bão gần đây và các vụ sạt lở để xác định ngưỡng cần thiết phải đưa ra cảnh báo.
"Các số liệu thống kê của chúng tôi cho thấy 90% các ca thương vong vì sạt lở xảy ra khi cảnh báo đất truồi đang có hiệu lực," Lawrence Shum Ka Wah, kỹ sư trưởng tại GEO, nói. "Sạt lở chỉ xảy ra ở nơi có độ dốc. Nếu mọi người tránh xa các con dốc, sẽ không có thương vong. Do đó cảnh báo sớm rất quan trọng."
Hệ thống cảnh báo đất truồi đã trở thành "phao cứu sinh", góp phần hạn chế thương vong do sạt lở, Wah nói. "Chúng ta sẽ không bao giờ biết chính xác số sinh mạng đã được cứu sống vì các sự kiện gây thương vong bị ngăn chặn không để xảy ra."
Các kỹ sư kỹ thuật địa chất ở Hong Kong cũng đã làm rất nhiều việc để giảm thiểu việc xảy ra sạt lở. Giờ đây họ hiểu nhiều hơn về cách mà các con dốc sụp đổ. Họ biên soạn một danh mục toàn diện về các sườn núi với thông tin từ 60.000 con dốc nhân tạo, bao gồm các thông tin về hình học, địa lý và lịch sử hình thành. Họ cũng nâng cấp hàng ngàn con dốc cũ để phù hợp với các tiêu chuẩn an toàn hiện nay.
Để cảnh báo công chúng tốt hơn về hiểm họa đất truồi, vào năm 2005 GEO cũng giới thiệu chỉ số sạt lở tiềm tàng, một mô hình thống kê được dùng để cảnh báo thời điểm có khả năng cao nhất xảy ra tai nạn sạt lở nghiêm trọng gây chết người.
Không giống như cảnh báo lở đất được đưa ra trước mỗi trận mưa bão, chỉ số sạt lở tiềm tàng dự đoán rủi ro sạt lở ngay sau khi một trận mưa bão lớn kết thúc. Nó sử dụng mạng lưới hơn 120 máy đo lượng mưa tự động của thành phố để đo lường cường độ và vị trí của lượng mưa, rồi kết hợp thông tin này với các phân tích dữ liệu sạt lở trong quá khứ và sự phân bố của các con dốc để đự đoán bao nhiêu vụ sạt lở có thể xảy ra.
Nguồn hình ảnh, Chính quyền Hong Kong
Năm 2008 là năm cuối cùng thành phố chịu thương vong vì sạt lở, khi một trận mưa bão nghiêm trọng tàn phá Đảo Lantau ngoài khơi Hong Kong, gây ra 2.400 vụ sạt lở ở địa hình tự nhiên và làm chết hai người. Hong Kong vẫn phải chịu hàng trăm vụ sạt lở mỗi năm, mặc dù hầu hết là các vụ sạt lở nhỏ ở ven đường các khu vực đồi núi hẻo lánh.
Nhưng thành công của GEO trong việc đảm bảo an toàn dốc có thể đã khiến nhiều người ở Hong Kong nghĩ rằng họ giờ đây không còn đối mặt với mối nguy sạt lở nữa, Michelle Yik, nhà tâm lý học tại Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong, nói. "Mọi người có thể không còn chứng kiến sạt lở trong một thời gian dài và họ đâm ra quên bẵng luôn."
Việc giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng về rủi ro sạt lở vẫn còn cần thiết, Wah đồng tình.
Từ năm 2019, các trận mưa bão dữ dội bắt đầu được phân thành ba nhóm rủi ro: "cao", "rất cao" và "đặc biệt cao". Áp dụng phương pháp tương tự cho các trận mưa bão trong quá khứ cho thấy thương vong hay xảy ra ở tất cả các trận mưa bão nằm trong nhóm rủi ro "đặc biệt cao". Đã có ba trận mưa bão như vậy được ghi nhận từ năm 1984.
"Chỉ số sạt lở tiềm tàng là một hệ thống khá đơn giản, ít nhất là ở mức độ khái niệm, và cực kỳ thiết thực trong việc xác định các mức độ rủi ro điển hình," Stuart Mills, phó giám đốc cơ sở hạ tầng tại công ty đa quốc gia về thiết kế kỹ thuật Arup, cho hay.
Cơ sở dữ liệu toàn diện về các vụ sạt lở của Hong Kong cho phép thành phố xây dựng mối quan hệ đáng tin cậy về mặt thống kê giữa cường độ mưa và sự kiện sạt lở, ông nói. Điều này cho phép thành phố thiết lập ngưỡng rủi ro mà trên mức đó nguy cơ sạt lở sẽ biểu hiện rõ rệt hơn.
"Khả năng xây dựng mối liên kết giữa các sự kiện này với dữ liệu về cường độ mưa theo thời gian thực là công cụ mạnh mẽ giúp chúng tôi quản lý rủi ro sạt lở và chuẩn bị cho thảm họa."
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Nhưng việc cải thiện sự hiện hữu của chỉ số này trong ý thức công chúng vẫn còn là điều rất cần thiết. Yik nói rằng một khảo sát (chưa được công bố) mà bà thực hiện với dân cư khu vực dễ xảy ra lở đất ở Hong Kong cho thấy chỉ 10% trong số 1.834 người được phỏng vấn đã từng nghe nói về chỉ số sạt lở tiềm tàng.
Hai hệ thống hiện hành cũng chủ yếu hướng đến hậu quả của sạt lở thay vì rủi ro tổng thể, Charles WW Ng, giáo sư kỹ thuật dân dụng và môi trường tại Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong, nói.
Cả hai cảnh báo được đưa ra trong hoặc sau khi một trận mưa bão diễn ra để cảnh báo mọi người về rủi ro, nhưng không thực sự phòng ngừa rủi ro xảy ra. Trong khi đó, một hệ thống cảnh báo dựa trên rủi ro sẽ cố gắng giảm thiểu sạt lở trước khi nó xảy ra.
"Kể cả khi tuyên bố xanh rờn rằng chúng ta đã sẵn sàng cho một trận mưa 500 năm mới có một lần đi chăng nữa, điều đó không có nghĩa là một trận mưa dạng 1.000 năm mới có một lần sẽ không thể xảy ra vào ngay ngày mai," Ng nói. "Vậy nên rủi ro là thứ luôn có thể xảy ra vào bất kỳ lúc nào. Chúng ta nên cố gắng hết sức có thể để giảm thiểu rủi ro thay vì ngồi yên chờ đợi nó xảy ra và sau đó đi xử lý hậu quả."
Tuy hầu hết các vụ sạt lở ở Hong Kong ngày nay đều là những vụ nhỏ, nhưng thành phố cũng chưa hề sẵn sàng cho những trận mưa nghiêm trọng hơn có thể xảy ra trong tương lai do biến đổi khí hậu, Ng cho biết thêm.
"Nếu có một trận mưa bão dữ dội như trận bão từng vùi dập Đảo Lantau năm 2008 xảy ra lần nữa trên Đảo Hong Kong hoặc Cửu Long (Kowloon) vào thời điểm hiện tại, chúng ta có lẽ chưa sẵn sàng đối phó," Ng nói. Thiệt hại về cơ sở hạ tầng và con số thương vong sẽ là "không thể tưởng tượng nổi".
Nguồn hình ảnh, HKUST
Ng hiện đang dẫn dắt một nhóm phát triển một hệ thống mới nhằm cảnh báo sớm thời tiết cực đoan và sạt lở, mà họ hy vọng sẽ trình làng trước năm 2024.
Hệ thống mới này hướng đến việc tăng thời gian dự báo trước khi thảm họa xảy ra từ ba tiếng sớm lên thành sáu tiếng, bằng việc sử dụng trí tuệ nhân tạo và công nghệ học máy (machine learning) để nghiên cứu những điểm chung trong các trận mưa có ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến Hong Kong, và địa điểm nó xảy ra.
"Khoảng cách ba tiếng đồng hồ có thể tạo ra sự khác biệt lớn trong việc cứu người," Ng nói. "Sau cùng thì điều mà chúng tôi hy vọng là chúng tôi sẽ có thể dự đoán các kiểu mẫu của các cơn mưa một cách chuẩn xác hơn cho từng khu vực.".
Hệ thống cảnh báo hiện thời khuyến cáo mọi người ở trong nhà khi lượng mưa đạt mức 70mm (2,8in), nhưng không đưa ra được khuyến nghị nào khác, ví dụ như họ cần phải tránh xa đồi dốc một khoảng cách bao xa.
Ứng dụng mới này sẽ cố gắng đưa ra lời khuyên hữu ích và chi tiết hơn, bao gồm việc gửi cảnh báo sớm đến mọi người thông qua một ứng dụng trực tuyến.
Một khi hoàn thành, hệ thống mới sẽ trở thành tiêu chuẩn quốc tế, Ng nói. Các chuyên gia khác cho biết hệ thống mới này sẽ đem lại các phát hiện có giá trị. "Đây là một cơ hội tuyệt vời để nâng kinh nghiệm và kiến thức vốn đã là hàng đầu thế giới lên một tầm cao hơn và tiếp tục đặt các chuyên gia Hong Kong ở tuyến đầu trong quản lý rủi ro sạt lở," Mills nói.
Ng nói hệ thống có thể được sử dụng ở các khu vực dễ bị sạt lở khác như Brazil, Ý, Nhật Bản, Ấn Độ và Thái Lan. "Hiện nay nhiều thành phố được đặt ở các khu vực núi non và không được chuẩn bị cho tác động thảm khốc từ các trận mưa bão chưa từng có tiền lệ do biến đổi khí hậu."
Đã có hơn 24 hệ thống cảnh báo sớm sạt lở hoạt động trên thế giới, chủ yếu ở Hoa Kỳ, Đông Nam Á, Đông Á và Ý. Nhưng trong khi các hệ thống này đang ngày càng được quan tâm, nhiều khu vực với rủi ro sạt lở cao vẫn còn thiếu vắng hệ thống cảnh báo.
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Trong thập kỷ trước, một vài quốc gia đang phát triển đã thiết lập hệ thống cảnh báo cộng đồng, Piciullo nói, là hệ thống được coi như biện pháp hạn chế rủi ro sạt lở chi phí thấp, nhờ vào mạng lưới giám sát khá đơn giản.
Những hệ thống như thế này tại các địa điểm như Chittagon ở Bangladesh và các khu ổ chuột ở Rio de Janerio cảnh báo trực tiếp tới dân cư về các vụ sạt lở có thể xảy ra trong các trận mưa lớn và khuyên mọi người di chuyển đến nơi an toàn hơn.
Giống như ở Hong Kong, sự kết hợp giữa khía cạnh công nghệ và xã hội là điều tối quan trọng trong các hệ thống này, Piciullo nhấn mạnh. "Thường thì dân cư trong cộng đồng, nhất là các cộng đồng sống ở khu vực chưa từng trải qua sạt lở, không di chuyển đến nơi an toàn khi cảnh báo được đưa ra hay còi báo động vang lên."
Mặc dù không phải tất cả các quốc gia sẽ đủ khả năng để áp dụng thiết bị kỹ thuật phức tạp của Hong Kong, nhóm đứng sau hệ thống cảnh báo mới của thành phố sẵn sàng chia sẻ kiến thức của họ với các quốc gia khác.
"Chúng tôi đang làm việc với một giáo sư ở Trung Hoa đại lục để hỗ trợ các nước nằm trong tuyến Vành đai Con đường với đặc tính địa lý tương tự Hong Kong, nhiều đồi núi và thường xuyên có mưa lớn," Ng nói. "Khi chúng tôi công bố nghiên cứu, tất cả các nước có thể sử dụng các phát hiện của chúng tôi và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình địa phương. Họ cũng có thể hợp tác với chúng tôi."
Nguồn hình ảnh, M. Keegan
Dự báo lượng mưa hay dự báo sạt lở đều không bao giờ có thể chính xác tuyệt đối. "Chúng tôi luôn nói với công chúng rằng rủi ro sạt lở không bao giờ là con số không cả," Wah nói. "Một trận mưa ngàn năm có một sẽ xảy ra ở Hong Kong một ngày nào đó."
Tuy nhiên, cách Hong Kong ứng phó với sạt lở đã giúp cư dân cảm thấy an toàn hơn rất nhiều, bao gồm cả Lau, người chứng kiến vụ sạt lở đau thương ở Sau Mau Ping năm 1972.
"Ngày nay tôi cảm thấy an toàn hơn rất nhiều khi sống ở đây," ông nói. "Chính quyền đã tiến hành nhiều biện pháp an toàn cho các con dốc như làm rào chắn và gia cố để đảm bảo khu vực trở nên an toàn hơn. Họ củng cố cơ sở hạ tầng và tôi không còn cảm thấy rủi ro cận kề."
Ông nói tín hiệu cảnh báo lở đất rất rõ ràng và luôn báo hiệu cho ông về hiểm họa. "Tôi cũng biết về chỉ số sạt lở," ông nói. "Các ngọn đồi xung quanh đây ngập nước sau mỗi trận mưa bão và một vụ lở đất rất có thể sẽ xảy ra lần nữa."
Nhưng Lau cũng ý thức được rủi ro sạt lở không bao giờ có thể giảm về số không cả, điều khiến cho ông trở nên tỉnh thức trong triết lý tiếp cận với cuộc sống hàng ngày.
"Tôi đã chứng kiến cách mọi thứ vụt thay đổi trong chớp mắt ra sao chỉ trong tích tắc. Mọi thứ có thể thay đổi nhanh như chớp," ông nói. "Vậy nên tôi cố gắng sống trọn vẹn mỗi ngày."
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.
Tin chính
BBC giới thiệu
Phổ biến
Nội dung không có