Có thể dự báo và đối phó thành công nạn đói toàn cầu như thế nào

Nguồn hình ảnh, FAO Colombia

    • Tác giả, María Paula Rubiano A.
    • Vai trò, BBC Future

Trong vài tuần hồi năm 2018, Yadira Martínez González đột nhiên phải nuôi thêm 15 miệng ăn. Họ hàng bên chồng cô, vốn di cư từ Colombia đến Venezuela nhiều thập kỷ trước, đã trở về quê hương trong làn sóng di tản hàng triệu người chạy khỏi một quốc gia suy sụp.

Cuộc khủng hoảng kinh tế, được cho là do tham nhũng và quản lý tài chính kém, điều mà tổng thống và các quan chức cấp cao nước này phủ nhận, đã khiến lạm phát tăng vọt hơn 860%, theo số liệu chính thức.

Martínez González bán đồ thủ công của dọc theo một trong số ít những con đường qua sa mạc La Guajira, không kiếm đủ tiền để mua thức ăn cho gần 40 người trong gia đình.

"Chúng tôi đâu ăn uống gì nhiều," cô nói. "Có lẽ hai lần, mà chủ yếu ăn một lần mỗi ngày."

Cô không phải là người duy nhất bất ngờ có khách trở về từ Venezuela. Không có đủ thức ăn, các con vật bắt đầu biến mất ở khu dân cư nông thôn của Martínez González, làng Palenstu ở La Guajira, một trong hơn 2.500 ngôi làng của tộc Wayúus, sắc tộc bản địa đông nhất Colombia.

Trong lúc căng thẳng dâng cao trên mặt đất bụi bặm thì các vệ tinh và trạm thời tiết địa phương dự báo sẽ không có mưa. Nếu không được giúp đỡ, mùa màng sẽ thất bát. Nạn đói đang ngấp nghé.

Nhưng điều đó không bao giờ xảy ra với 45 gia đình trong cộng đồng của Martínez González, cũng như 7.000 người khác ở bốn thị trấn thuộc La Guajira.

Thích ứng với hạn hán

Vào tháng 6/2018, một nhóm công tác từ Tổ chức Nông Lương (FAO), Chương trình Lương thực Thế giới và Hành động Chống Nạn đói đã đến thăm các cộng đồng này.

Họ phát hiện làn sóng di cư từ Venezuela đã khiến các gia đình Wayúu ở biên trung bình mỗi hộ tăng thêm bốn người, trong khi hạn hán tiếp diễn đã giảm gần một nửa sản lượng mùa màng, sữa và thịt. Nhiều người cạnh tranh công việc với nhau hơn, khiến tiền lương giảm, và các gia đình nợ tiền chỉ vì mua một ít hạt giống.

Cùng với dự báo lượng mưa dưới mức trung bình và nhiệt độ cao, các tổ chức biết rằng họ cần hành động trước khi khủng hoảng lên đến đỉnh điểm.

Họ lập ra chương trình phản ứng nhanh và đến tháng 9/2018, họ đã triển khai chiến lược bốn bước để giúp đỡ cộng đồng.

Trong vòng tám tháng, họ đã phục hồi 18 giếng nước, phân phối hạt giống, hướng dẫn và trao công cụ để lập các trang trại cộng đồng, và triển khai các đội thú y để tiêm phòng và chữa trị cho khoảng 12.500 con bò, cừu và dê.

Chương trình trị giá 400.000 đô la này đã giúp cộng đồng thay da đổi thịt.

Trong chín tháng, 17 trang trại cộng đồng được thành lập trong chương trình đã giúp tăng lượng rau củ tươi mà các gia đình có được từ hai lên bốn ngày một tuần, theo FAO.

Tổng cộng, 1.000 hộ gia đình ở năm thị trấn thu hoạch khoảng 115 kg thực phẩm từ năm vụ mùa khác nhau - bao gồm một số cây trồng mới, như cà tím, FAO cho biết.

Để so sánh, các gia đình không thuộc chương trình thu hoạch được 35 kg từ các loại cây trồng với chủng loại ít hơn nhiều.

Quan trọng hơn, Martínez González nói, họ đã khôi phục tư duy chung của người lớn tuổi đối với thực phẩm. "Nó cho phép chúng tôi không chỉ có thức ăn mà còn dạy con cháu và các thành viên trẻ biết trân trọng đất đai của mình," cô nói.

Nguồn hình ảnh, FAO Colombia

Chụp lại hình ảnh, Một gia đình Wayuu phải quay trở về La Guajira gần biên giới với Venezuela

Can thiệp này, vốn cố gắng xử lý khủng hoảng trước khi nó xảy ra, là phản ứng nhân đạo mới đối với các nạn đói nghiêm trọng. "Vấn đề không phải là hỗ trợ khẩn cấp để phát thực phẩm, mà là tạo điều kiện thích ứng với hạn hán," Alan Bojanic, đại diện FAO ở Colombia, nói.

Thay vì tập trung quyên góp thực phẩm và hỗ trợ tiền mặt, cách can thiệp này đồng thời xây dựng khả năng chống chịu cho người dân trước cú sốc hiện tại và sau này, nhà xã hội học Erin Lentz nghiên cứu an ninh lương thực và viện trợ lương thực tại Đại học Texas, Austin, cho biết.

Can thiệp sớm như vậy ở khu dân cư của Martínez González chỉ có thể thực hiện được bởi vì 40 năm trước, sau khi nạn đói tàn khốc giết chết khoảng một triệu người ở Ethiopia vào giữa những năm 1980, một nhóm các nhà khoa học trái đất, nhà khí hậu học, nhà nông học và nhà phân tích dữ liệu đã hợp lực để đảm bảo rằng nạn đói sẽ không bao giờ khiến thế giới bất ngờ nữa.

Họ trở thành những nhà dự báo nạn đói - và họ đã hết sức thành công trong mục tiêu này.

Cảnh báo sớm

"Các hệ thống cảnh báo sớm nói chung đã dự đoán hầu hết các nạn đói xảy ra gần đây," Dan Maxwell, giáo sư tại Trường Khoa học và Chính sách Dinh dưỡng Friedman thuộc Đại học Tufts của Mỹ, cho biết.

Sử dụng các phân tích tính theo thời gian thực về tác động của xu hướng mưa gió, độ ẩm đất, dòng chảy của sông, giá ngũ cốc quốc tế, biến đổi thời tiết và dữ liệu vệ tinh về những thay đổi trong độ phủ xanh, kết hợp với thông tin về cường độ xung đột và khủng hoảng nhân đạo, các nhà dự báo có thể dự đoán nạn đói vài tháng trước khi nó xảy ra. Điều này cho phép chính quyền địa phương hành động và khởi động quỹ trợ giúp quốc tế trước khi nạn đói xảy ra, tránh kết cục xấu nhất có thể xảy ra ở những nơi bất ổn lương thực.

Năm 2016, Mạng lưới Hệ thống Cảnh báo sớm Nạn đói (Fews Net), một trong những hệ thống cảnh báo sớm nạn đói lớn nhất hiện nay, đã dự đoán trận hạn hán khắc nghiệt chưa từng có ở vùng Sừng châu Phi mà sau đó khiến khoảng 27 triệu người bị mất an ninh lương thực nghiêm trọng.

Cảnh báo ngay lập tức đem lại nguồn cung lương thực cho 2 triệu người Somalia. So với hạn hán năm 2011, can thiệp sớm đã giúp giảm hơn một triệu người Kenya bị đói nặng, một báo cáo cho thấy.

"Có rất nhiều điều phải lo buồn trên thế giới," Chris Funk, giám đốc Trung tâm Nguy hiểm Khí hậu (CHC) tại Đai học UC Santa Barbara, nơi thu thập hầu hết dữ liệu khí tượng cho Fews Net, nói. "Nhưng tôi nghĩ điều quan trọng là nhận ra rằng đây là nhân loại ở trạng thái tốt nhất."

Nguồn hình ảnh, FAO Colombia

Chụp lại hình ảnh, Phụ nữ Wayúu từ cộng đồng Parenska ở La Guajira, Colombia, theo dõi rau củ trồng tại một trung tâm tập huấn nông nghiệp

Người hùng của Funk là nhà thống kê thế kỷ 20 Gilbert Walker. Là nhà toán học Anh ám ảnh với việc tìm kiếm và đo lường các mô hình và chu kỳ, Walker được tuyển chọn để lãnh đạo Cục Khí tượng Ấn Độ vào năm 1903. Nhiệm vụ nặng nề được đặt lên vai ông: dự báo khi nào có mưa gió mùa, hiện tượng thiên tai hồi 26 năm trước đã khiến mùa màng thất bát, gây ra nạn đói tồi tệ nhất từng được ghi nhận ở quốc gia này.

Walker bắt đầu tìm hiểu làm thế nào mưa, nhiệt độ và áp suất liên quan đến nhau và định hình xu thế thời tiết toàn cầu. Nghiên cứu của ông và những người khác đã giúp hiểu về El Niño và La Niña, thay đổi nhiệt độ định kỳ ở Thái Bình Dương vốn có thể dẫn đến hạn hán hoặc mưa quá nhiều ở một số nơi trên thế giới. "Chúng ta vẫn đang theo bước ông ấy. Chúng ta đang làm những gì ông dấn thân để làm," Funk nói.

Bức tranh hạn hán hoàn chỉnh

Năm 1985, khi Funk lúc đó còn là đứa trẻ xem buổi ca nhạc 'Trợ giúp' cho Ethiopia trên ti-vi, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cho ra đời Fews Net trong nỗ lực giúp các chính phủ và các cơ quan cứu trợ lên kế hoạch can thiệp vào các cuộc khủng hoảng nhân đạo.

Nhiệm vụ không phải là nhỏ. Việc nhìn thấy được bức tranh hạn hán hoàn chỉnh thì giống như việc tập trung vào cả điều to lớn ở xa lẫn điều nhỏ ngay trước mắt.

Các khía cạnh lớn, xa là các biến đổi toàn cầu ảnh hưởng lượng mưa: thay đổi nhiệt độ gió và mặt biển hay dao động áp suất khí quyển. Các vệ tinh dễ dàng phát hiện chúng.

Nhưng các vệ tinh khó mà phát hiện những thứ như độ ẩm đất cục bộ, độ che phủ xanh, dòng chảy sông suối và nhiệt độ không khí. Mặc dù những thay đổi này có thể thấy từ các vệ tinh trong không gian, nhưng nó thường là quá muộn: viện trợ lương thực không còn kịp nữa.

Fews Net sử dụng thông tin vệ tinh và dữ liệu đốm của các trạm thời tiết địa phương trong nhiều năm. Sau đó, vào năm 2002, nó bắt đầu tài trợ nhóm nghiên cứu khí hậu nhỏ tại UC Santa Barbara được gọi là Nhóm Nguy cơ Khí hậu.

Được Funk đồng lãnh đạo, báo cáo đầu tiên của nhóm nghiên cứu được đưa ra trong năm 2002 kết hợp thông tin lịch sử ít ỏi về số liệu lượng mưa ở Ethiopia và dữ liệu về tình trạng mùa màng ở Nam Phi để ghi lại tác động của El Nino năm 2002 trong khu vực. Nhờ đó, USAID đã gửi khoảng 280 triệu đô la viện trợ lương thực.

"Ít nhiều, chúng ta đã làm nhiều điều tương tự kể từ đó," Funk nói. "Nhưng giờ đây chúng ta đã làm tốt hơn nhiều."

Để có dữ liệu tốt hơn, nhóm nghiên cứu đã phát triển chiến lược hai chiều. Trước tiên, họ lấy được dữ liệu từ một loạt vệ tinh châu Âu thu thập thông tin thời tiết châu u và châu Phi kể từ những năm 1980.

Những vệ tinh này đo nhiệt độ đám mây và dùng nó làm đại diện cho lượng mưa: nếu nhiệt độ đám mây nào đó giảm xuống dưới −38C, có khả năng sẽ có mưa dưới đám mây đó. Với dữ liệu này, nhóm nghiên cứu đã lập bản đồ lịch sử mưa ở châu Phi.

Đồng thời, họ thuyết phục các cơ quan khí tượng địa phương chia sẻ dữ liệu trạm thời tiết. Đó là quá trình chậm nhưng đáng, Diego Pedreros, nhà khoa học thực địa cho Cục Khảo sát Địa chất Mỹ và là cộng tác viên lâu năm của Funk, nói.

Trong nhiều năm, họ đã thiết lập quan hệ đối tác với các nhà nghiên cứu địa phương, nhà khoa học thực địa và cơ quan chính phủ trên khắp Hoa Kỳ và ở các nước khác như Guatemala, Kenya, Botswana, Niger và Ethiopia.

Hiện họ nhận được thông tin từ 2.000 trạm khí tượng ở 17 quốc gia, cứ mỗi vài ngày lại được cập nhật.

Tốc độ cảnh báo

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Một phụ nữ gùi nước ở Gode, Ethiopia. Nạn đói khủng khiếp đã giết chết gần 1 triệu người tại Ethiopia hồi giữa thập niên 1980

Với khả năng nhìn thấy cả những yếu tố cực lớn và cực nhỏ của hạn hán sắp xảy ra, cứ mỗi 5 ngày Trung tâm Nguy hiểm Khí hậu gửi báo cáo cho các đối tác tại chính phủ Hoa Kỳ, các tổ chức nhân đạo và các cơ quan quốc tế như FAO.

Báo cáo đưa ra một loạt bản đồ các điểm nóng ở châu Phi, châu Á và Trung Mỹ, với thông tin và dự báo lượng mưa theo thời gian thực cho 15, 30 và 60 ngày tới. Nó cũng so sánh lượng mưa hiện tại với các năm trước, đặt dữ liệu trong bối cảnh - dưới hay trên trung bình? Khả năng thay đổi thế nào? Tệ thế nào so với những năm trước?

Dựa trên những bản đồ đó, quan chức ở các cơ quan chính phủ Hoa Kỳ và các nhà phân tích an ninh lương thực đưa vào các biến số khác như giá ngũ cốc, những cú sốc kinh tế gần đây ở địa phương và mức trầm trọng của các cuộc xung đột vũ trang để đưa ra dự báo xác quyết về nạn đói cho hơn 35 quốc gia.

Công việc của họ là không thể thiếu trong hướng dẫn chi tiêu ngân sách viện trợ lương thực hàng năm của USAID gần 4 tỷ đô la.

Cảnh báo sớm về nạn đói đã cho mọi người cơ hội phản ứng và thậm chí phục hồi sau khủng hoảng, Lentz nói. "Tôi nghĩ tốc độ này thực sự tạo ra khác biệt rất lớn để ngăn mọi người áp dụng các chiến lược đối phó ngày càng tệ mà sẽ dẫn đến tình huống mà họ không thể thoát ra."

Tuy nhiên, thông tin do Fews Net đưa ra không phải lúc nào cũng có nghĩa là những người ra quyết định sẽ hành động kịp lúc. Hệ thống cảnh báo sớm hiện làm rất tốt để cảnh báo về cú sốc sắp xảy ra, nhưng những người ra quyết định không muốn bỏ tiền cho đến khi họ thấy khủng hoảng diễn ra, Maxwell nói. "Vấn đề là, vào lúc bạn nhìn thấy nó thực sự xảy ra, thì đã quá muộn."

Fews Net và các công cụ tương tự đã cảnh báo những dấu hiệu đáng ngại ở Nam Madagascar kể từ tháng 5/2021, và năm thứ ba liên tiếp hạn hán tồi tệ nhất trong 40 năm được dự đoán sẽ tiếp tục.

Cho đến tháng 9/2021, Funk viết các bài báo cố gắng thu hút sự quan tâm. Giờ đây, gần 1,5 triệu người đang sống trên bờ vực nạn đói, ăn côn trùng và lá xương rồng.

"Điều khiến tôi thấy thực sự bực bội là điều này xảy ra rất thường xuyên, và chúng ta chủ yếu hành động theo cách phản ứng lại," Funk nói.

Đói triền miên

Thu hẹp khoảng cách giữa dự báo và phản ứng, theo một số chuyên gia, đòi hỏi cần xem nạn đói không như là cú sốc ngay lập tức mà là hậu quả chết chóc của tình huống khẩn cấp lớn hơn, yên ắng hơn vốn thường lơ lửng trên đầu các cộng đồng này: nạn đói kinh niên.

Phản ứng trước đói kém và thiếu ăn lâu nay được coi là hai vấn đề riêng biệt, gần như không liên quan, Lentz nói. Phản ứng về đói kém thường tập trung vào thu hút sự chú ý nhất thời, trong khi các chương trình giảm thiếu ăn có xu hướng liên quan đến các dự án phát triển.

Tuy nhiên, trong đời thực, đói kém và thiếu ăn liên quan mật thiết. Khi một cộng đồng đói kinh niên gặp khủng hoảng, "họ bắt đầu tiến gần đến bờ vực mất an ninh lương thực nghiêm trọng," Lentz nói.

Bản thân Martínez González đã trải qua cảnh này. Khi cô đột nhiên phải nuôi thêm 15 miệng ăn, khả năng tự nuôi sống ở cộng đồng cô đã xấu đi trong gần một thập kỷ.

Cô nhớ gia đình cô thường thu hoạch rau khi cô còn nhỏ. Phụ nữ băng qua biên giới Venezuela để mua đồ rẻ. Nhưng bắt đầu từ năm 2013, La Guajira trải qua một trong những trận hạn hán tồi tệ nhất được ghi nhận. Các giếng nước hư hại hay khô cạn. Những người chăn gia súc chứng kiến hầu hết các con vật của họ chết. Đậu, dưa hấu, bí ngô, khoai, ngô và dưa mọc lưa thưa, nếu thật sự có mọc.

Venezuela cấm xuất khẩu thực phẩm thiết yếu vào năm 2014, và lính biên phòng tuần tra bắt đầu lấy của phụ nữ Wayúu vài cân gạo, dầu hay bột mì họ đem về cho gia đình.

Sau đó, khi lạm phát khiến thực phẩm thành xa xỉ ở Venezuela, hàng ngàn di dân bắt đầu đến Colombia và các nước Mỹ Latin khác. Đến tháng 11/2018, khoảng 1,2 triệu người đã định cư ở Colombia, nhiều người trong đó ở La Guajira.

Ước tính mới nhất cho thấy gần 6 triệu người Venezuela đã ra đi, thoát khỏi đói nghèo, bạo lực và đói khát trong đường cùng. Khoảng 1,8 triệu người đã ở lại Colombia, hơn 106.000 người định cư ở La Guajira, theo dữ liệu của chính phủ Colombia.

Tầm nhìn dài hạn

Tuy nhiên, hầu hết giúp đỡ nhân đạo và can thiệp của chính quyền trên bán đảo chỉ là ngắn hạn và tập trung giúp mọi người vượt qua rào cản trước mắt, nhà nhân chủng học Claudia Puerta Silva, vốn làm việc trong vùng trong 20 năm qua, cho biết. Nhưng một khi cộng đồng vượt qua khủng hoảng ngắn hạn, họ thường dễ tổn thương hơn trước cú sốc mới so với trước, bà nói. Nếu khả năng chống chọi không tăng, họ có thể bị kẹt trong vòng luẩn quẩn, bà nói.

Nguồn hình ảnh, FAO Colombia

Chụp lại hình ảnh, Cộng đồng Ooroko ở La Guajira, Colombia, làm máng nước màu xanh cho động vật

Trường hợp khủng hoảng này, diễn ra cùng với phản ứng ngắn hạn, không là ngoại lệ. Phúc trình của Tổ chức Chính sách Nhân đạo cho thấy trong năm 2016, hầu hết viện trợ lương thực nhân đạo tập trung ở cùng 10 nước và 86% số tiền được chuyển đến các cộng đồng nơi khủng hoảng đã kéo dài hơn ba năm.

Phúc trình viết: "Các khủng hoảng kéo dài trong nhiều thập kỷ, còn viện trợ nhân đạo vẫn tính theo năm và ngắn hạn."

Phản ứng tốt hơn, Lentz nói, là những hành động can thiệp sớm để giúp cộng đồng xây dựng năng lực cho khủng hoảng sắp tới và dài hạn. Đó chính là điều FAO làm ở La Guajira, nơi bị thiếu ăn kinh niên vốn có thể dễ thành nạn đói nếu hoàn cảnh xấu đi.

Với dự báo hạn hán trong tay, FAO và cộng đồng ưu tiên trồng các hạt giống chu kỳ ngắn, chịu hạn như ngô, khoai mì và các loại đậu khác nhau. Dự án cũng hỗ trợ các hoạt động kinh tế, tạo ra một cửa hàng trực tuyến cho các cộng đồng bán hàng thủ công của họ, vốn kịp thời hỗ trợ họ trong thời gian phong tỏa Covid-19 hai năm sau đó.

Nó khiến cho Funk hy vọng rằng mọi người vận dụng dự báo nạn đói cho cả những việc vượt ra ngoài khuôn khổ mỗi khủng hoảng cụ thể.

Các cơ quan chính phủ ở Kenya và Malawi hiện sử dụng các tình trạng thấy được để đề ra các chính sách bảo hiểm cho các hộ tiểu nông sắp đối mặt hạn hán, giúp họ được cho vay để tăng sản lượng khi cần thiết.

Ở thế giới mà số người mất an ninh lương thực nghiêm trọng đã tăng gấp đôi chỉ trong hai năm do xung đột, hạn hán và thiên tai, và khi mà biến đổi khí hậu đã thúc đẩy hạn hán ở nhiều nơi, hơn bao giờ hết cần lên kế hoạch từ sớm để ngăn chặn nạn đói.

Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.