Skip to main contentAccess keys helpA-Z index
BBCVietnamese.com
chinese
russian
french
Other Languages
 
27 Tháng 9 2005 - Cập nhật 16h37 GMT
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
Việt Kiều đã bắc cầu, nhà nước cần bước tới
 

 
 
Việt Nam vừa kỷ niệm 60 năm ngày tuyên bố độc lập, thêm một lần nữa trong quá trình đã không biết bao lần giành lại độc lập từ thời các vua Hùng đến nay. Hy vọng đây cũng sẽ là lần chót ta phải dành lại độc lập.

Khu Phước Lộc Thọ
Khu thương mại Phước Lộc Thọ của người Việt tại tiểu Sài Gòn

Nhìn vào trong nước, một thế hệ mới đã bắt đầu trưởng thành.

Ba mươi năm sau khi ta ngưng tiếng súng của một cuộc chiến tranh tương tàn; 20 năm sau khi chính sách "đổi mới" được chấp thuận và thi hành; và khoảng 15 năm sau khi Việt Nam chấm dứt một cuộc chinh phục bất đắc dĩ; sáu mươi phần trăm dân số Viêt Nam hiện nay ở dưới tuổi 30.

Họ sẽ là thành phần nồng cốt xây dựng nước Việt Nam trong thế kỷ 21; và chúng ta hy vọng rằng thế hệ lãnh đạo mới này, trẻ hơn, ít bị chi phối bởi chiến tranh, có thể sẽ có tài hơn, và có một tầm nhìn rộng rãi hơn những thế hệ trước.

Một thế giới đang thay đổi

Trong 100 năm qua, hầu hết các dân tộc trên ba đại lục --Á châu, Phi châu, và châu Mỹ La-tinh-- cũng đã vùng vẫy thoát khỏi gông cùm thực dân và, như Việt Nam, dành lại độc lập, sau thế chiến thứ hai. Ít nhất là độc lập về phương diện chính trị và ngoại giao.

Ngược lại, hầu hết các cường quốc đầu thế kỷ 20 nay đã mất thế: Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ. Một cường quốc trẻ nhất và may mắn nhất, Mỹ, sau khi thắng hai cuộc thế chiến và cuộc chiến tranh lạnh, đã trở thành một siêu cường quốc, bá chủ thế giới về nhiều lãnh vực: quân sự, ngoại giao, văn hoá, và nhất là kinh tế.

Tuy nhiên, nhờ vào cuộc cách mạng tin học và con số đông người, nhất là giới trí thức sinh sống ở nước ngoài, hai quốc gia khác, với một nền văn hoá sâu đậm, có thể sẽ khống chế được phần nầo những lạm dụng quá mức của siêu cường quốc Mỹ: đó là Trung Quốc và Ấn Độ.

Arnold Schwarzenegger
Thống đốc bang California Arnold Schwarzenegger thăm báo Người Việt

Với gần 40% dân số toàn cầu, TQ và ÂĐ có đủ khả năng và nhân lực, và
với công kỹ nghệ phát triển mạnh, hai nước này có thể đối đầu được với
cả Mỹ lẫn Âu châu. Cả hai đều có vũ khí nguyên tử để chận đứng những
âm mưư xâm lược, khác với các thế kỷ 19 và 20.

Và nhất là, với hơn 100 triệu người sống ở nước ngoài trên khắp thế giới và qua nhiều thế hệ Trung Quốc và Ấ Độ có khả năng tận dụng được những cái hay của người và đồng thời quảng bá hai nền văn hoá nghìn năm của họ.

Tiềm năng của khối Việt Kiều

Nhìn vào cộng đồng người Việt ở nước ngoài: con số tuy nhỏ nhưng tiềm năng không nhỏ.

Với khoảng ba triệu người rải rác khắp thế giới --tuy phần lớn quy tụ tại Bắc Mỹ, Âu châu, và Úc châu-- người Việt đang hình thành các ước mơ của những Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Cường Để, Petrus Ký và Tự Lực Văn Đoàn.

Nhưng đó mới là tiềm năng. Thực tế, khối người Việt ở nước ngoài, cũng như đa số người Việt trong nước, chưa đủ thức tỉnh, chưa đủ nhìn rộng, và chưa đủ quyết tâm đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết, để có thể triển khai tối đa tiềm năng này.

Trong bối cảnh đó, của cả thế giới cũng như của người Việt trong và ngoài nước, tôi xin dành các vấn đề quan trọng của chúng ta đến một dịp khác, (1) và chỉ trình bày ở đây một đề nghị nhỏ : Phát Triển Văn Hóa Việt Ở nước Ngoài.

Phòng Văn Hóa Việt ở nước ngoài

Vấn đề quá đơn giản: cả thế giới, các nước từ lớn tới nhỏ đều lập các phòng văn hoá nơi nào có kiều dân của họ cư ngụ. Nhỏ như Ái Nhĩ Lan, Đài Loan, hoặc Tây Tạng; lớn như các cưự hoặc đương kim cường quốc, Mỹ, Nga, Pháp, Đức, Anh.

Ông Phan Văn Khải thăm Canada
Thủ tướng VN khi công du ngoại quốc kêu gọi người Việt bỏ hận thù để xây dựng quê hương

Có những nước còn "siêu" hơn nữa; họ không những phục vụ kiều dân của họ, mà còn "xuất cảng" văn hoá, lối sống của họ qua các nước khác. Nhật bản, chẳng hạn, giúp lập hàng loạt các vườn Nhật tại nhiều thành phố lớn trên khắp thế giới. Pháp có Alliance Francaise, Đức có Goethe Institute, với cùng mục đích: phát huy ngôn ngữ và văn hoá của họ cho người bản xứ.

Việt Nam ta, tương đối vẫn còn bị nhiều hiểu lầm: hình ảnh sâu đậm nhất về VN vẫn là cuộc chiến. Một số lớn người nước ngoài coi ta là "nạn nhân" và họ có cảm tình. Một số khác vẫn còn mang hận thù, hoặc ít nhất là hiểu lầm, cũng từ cuộc chiến. Thế nào đi nữa --thương hay ghét-- ta cũng không muốn bị tô bởi cây cọ chỉ có một mầu: chiến tranh.

Thêm nữa, thế hệ thứ hai của người Việt ở hải ngoại nay đã trưởng thành: một số nhỏ còn viết, nói được tiếng Việt khá sõi; nhưng đa số chỉ có thể nói chứ không biết đọc viết; và một số không nhỏ đành bó tay, không nghe hoặc nói được gì. Một điểm chung là hầu như tất cả đều chỉ hiểu bập bẹ về văn hoá Việt.

Một số các em, các cháu có phương tiện hoặc còn người thân ở Việt Nam nên đã về nước để học hỏi và thấm nhuần văn hoá Việt. Đa số còn đang vật lộn với các sách vở do người ngoại quốc viết để tìm hiểu về quá khứ của chính mình.

Đây là thời điểm và cơ hội tốt cho nhà nước Việt Nam vừa giúp thế hệ trẻ này tìm "về nguồn" vừa phát huy dược văn hoá Việt.

Riêng tại nước Mỹ, nơi có gần hai triệu dân gốc Việt, thiết tưởng Việt Nam nên lập khoảng 4 - 6 phòng văn hoá trong vòng 10 năm tới, với khá đủ dịch vụ: phòng đọc sách, báo cho những ai muốn theo dõi tình hình Việt Nam; các lớp Việt ngữ cho những ai muốn trau dồi chữ Việt; các buổi trình diễn hoặc hội thảo về văn hoá Việt, giới thiệu các tài năng trong và ngoài nước.

Về tổ chức, các phòng văn hoá này phải trực thuộc chính phủ Việt Nam; nhân viên phải có đủ khả năng "đem chuông đi đánh xứ người" và do chính phủ tài trợ tương xứng. Các cộng đồng người Việt hải ngoại có khả năng đóng góp, bằng nhiều phương tiện, để gíup những phòng văn hóa này phát triển và thành công.

Tiếng Việt còn nước ta còn

Trong thế kỷ vừa qua, Việt Nam đã thắng lợi nhiều về quân sự, đã đạt nhiều kết quả về ngoại giao, và đang tiến hành chuyển mình nhanh về kinh tế. Đã đến lúc chúng ta, người Việt trong cũng như ngoài nước, không thể còn coi nhẹ mặt trận văn hoá mà phải đặt trọng tâm văn hóa ngang hàng với ba lãnh vực kia. (2)

Về mục tiêu, tưởng không có gì quan trọng hơn việc giúp người Việt, thế hệ thứ hai, thứ ba trở đi, có phương tiện học tiếng Việt, trau dồi văn hoá Việt, và từ đó, họ sẽ vừa giữ được “gốc Việt” của họ, vừa là những sứ giả tiếp tay cho công cuộc bang giao của Việt Nam với thế giới bên ngoài.

Đài phát thanh Little Saigon
Quyên góp cho nạn nhân sóng thần Á châu tại đài Little Saigon Radio

Về cộng tác giữa người Việt trong và ngoài nước, các phòng văn hoá này cũng sẽ là những cơ cấu thuận lợi để phát huy các liên hệ giữa những cá nhân, tổ chức, những chương trình hưữ ích cho cả hai phía. Và nhất là giữ được cá tính của người Việt trong những thế hệ mai sau.

Hiện nay, đã có hàng chục, nếu không nói là hàng trăm, những tổ chức thiện nguyện to nhỏ, do người gốc Việt đề xướng để trực tiếp giúp cho đồng bào bên nhà. Giới buôn bán còn đi trước nữa: từ hơn chục năm nay, họ đã về đầu tư bên Việt Nam. Giới trí thức cũng không kém, họ đã trao đổi với các đối tác trong nước từ ngay sau năm 1975. Các nghệ sĩ ngày càng ra vào trình diễn dễ dàng hơn xưa. Ngay cả giới lãnh đạo các tôn giáo cũng đã đi về thường xuyên, nối liền các giáo hội trong và ngoài nước. Mỗi năm, có khoảng 300,000 người từ Mỹ về thăm Việt Nam. Và cá nhân chúng ta, tưởng ít có gia đình nào mà hàng năm không gửi chút đỉnh tiền về giúp người bên nhà; năm 2004 chẳng hạn, người Việt ở nước ngoài gửi về hơn bốn tỷ đô la để giúp gia đình và thân hưữ.

Phải chăng đây cũng là cơ hội và thời điểm tốt để chính phủ Việt Nam tiếp tay vào việc phát huy các "đầu cầu" đã được người Việt ở nước ngoài bắc sẵn?

Note: Giáo sư Vũ-Đức Vượng viết tham luận về chính trị và xã hội cho nhiều báo trong và ngoài nước.

Ghi chú (1) Những vấn đề như chính sách kinh tế, thể chế chính trị, cơ cấu pháp luật, tự do báo chí, tự do ngôn luận, dân chủ, dân quyền, độc đảng, đa đảng, tự do tôn giáo, khoảng cách giữa tôn giáo và chính trị, và nhất là cùng nhau tìm một định nghĩa mới ai (hoặc thế nào) là người Việt trong bối cảnh mới này.

(2) Trong một dịp khác, tôi hy vọng sẽ bàn thêm về sự ngắt đoạn của cuộc cách mạng văn hoá Việt Nam, từ 1930 tới khoảng năm 2000.
Đầu thế kỷ 20, chúng ta đã khởi đầu một cuộc cách mạng văn hoá thực sự, thật sâu, và đã mang kết quả, qua các phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, phát huy chữ Quốc ngữ, Nam Phong, và nhất là nhóm Tự Lực Văn Đoàn.

Từ cuộc khởi nghĩa bất thành ở Yên Bái, 1930, toàn dân ta dồn hết sức lực, trí tuệ, và ngay cả mạng sống vào cuộc cách mạng dành độc lập và thống nhất đất nước. Văn hoá, trong những thập niên này, chỉ là một dụng cụ trong công cuộc sinh tồn chung của toàn dân.

Sang đầu thế kỷ 21, khi cuộc sống đã khá hơn và tình hình chung tương đối ổn định, có lẽ đây là lúc chúng ta tiếp tục công việc dang dở của những Phạm Quỳnh, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Thế Lữ, Khái Hưng, v.v... đã khởi sự từ 70-80 năm trước.

Hơn cả việc phát huy chữ Quốc ngữ để nâng dân trí một cách cụ thể (nước ta gần như đã chinh phục được nạn mù chữ), các vị tiền bổi trong cuộc cách mạng văn hoá này đã bắt đầu đặt các câu hỏi căn bản: văn hoá Việt là gì, và người Việt là ai?

 
 
Tên
Họ*
Thành phố
Nước
Điện thư
Điện thoại*
* không bắt buộc
Ý kiến
 
  
Đài BBC có thể biên tập lại ý kiến của quí vị và không bảo đảm tất cả thư đều được đăng.
 
CÁC BÀI LIÊN QUAN
 
 
TIN MỚI NHẤT
 
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
 
   
 
BBC Copyright Logo ^^ Trở lại đầu
 
  Trang chủ| Thế giới | Việt Nam | Diễn đàn | Bóng đá |Văn hóa | Trang ảnh |
Chuyên đề| Learning English
 
  BBC News >> | BBC Sport >> | BBC Weather >> | BBC World Service >> | BBC Languages >>
 
  Ban Việt ngữ | Liên lạc | Giúp đỡ | Nguyên tắc thông tin cá nhân