![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Một đánh giá về viễn cảnh kinh tế VN | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Trong đánh giá mới nhất về kinh tế Việt Nam, công ty khảo sát thị trường Business Monitor International (BMI) nói Việt Nam có thể duy trì tỉ lệ tăng trưởng hàng năm 7.5 - 8% từ nay đến 2010. Phúc trình quý hai năm nay của BMI cũng nói nhiều trở ngại cơ cấu như thách thức của WTO, cải tổ khu vực ngân hàng... có thể tác động tiêu cực đến bức tranh màu hồng này. BMI, thành lập năm 1984, là công ty nghiên cứu thị trường của hơn 125 nước, với trọng tâm phân tích và dự báo tình hình chính trị, kinh tế. Phúc trình mới nhất bày tỏ niềm tin rằng mức tăng trưởng 7.5 - 8% của Việt Nam có thể duy trì ít nhất đến 2010. Lạc quan Thâm hụt ngân sách, theo BMI, đã giảm từ 7.2% của tổng GDP năm 2003 xuống còn 5% vào năm ngoái.
Việt Nam đang ở trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp. Năm 2005, khu vực nông nghiệp chỉ tăng 4%, trong lúc khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng 10.6% và 8.5%. Theo số liệu của BMI, hai khu vực này chiếm 80% nền kinh tế Việt Nam hiện nay, trong lúc nông nghiệp chỉ còn chiếm 20%. Tuy nhiên, nhiều trở ngại cơ cấu vẫn còn tồn tại. Đầu tiên, việc chưa vào được WTO năm 2005 đã không giúp cho tăng trưởng các mặt hàng xuất khẩu. Ngay cả sau khi đã là thành viên WTO, nếu Việt Nam bị buộc bỏ ưu đãi thuế cho các công ty sản xuất hàng xuất khẩu và hạn chế xuất khẩu dệt may, lợi ích của việc gia nhập có thể ít hơn là dự đoán. Một rủi ro khác cho viễn cảnh tăng trưởng là tiến độ cải cách chậm chạp trong khu vực ngân hàng. Có nguy cơ gia tăng các khoản nợ xấu; tuy vậy, BMI nói việc tăng thị phần của các ngân hàng nước ngoài có thể làm tăng tốc cải tổ và khiến ngân hàng trong nước đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Thứ ba, BMI nói hệ thống chính trị một đảng của Việt Nam khiến tạo ra tiềm năng cho bất ổn. Bức tranh chính trị sẽ trở nên rõ ràng hơn sau Đại hội X của Đảng Cộng sản, khi Đảng chọn lãnh đạo mới và đề ra chính sách từ đây đến 2010. Trong báo cáo về từng quốc gia, BMI bao giờ cũng đưa ra bảng đánh giá về rủi ro kinh tế (Economic Risk Ratings), xếp hạng khả năng của một nước trong việc cung cấp môi trường để các công ty duy trì lợi nhuận và phát triển. Bảng đánh giá về rủi ro kinh tế lại chia thành hai phần: ngắn hạn và dài hạn. Trong phúc trình quý hai này, về ngắn hạn, BMI cho Việt Nam 62 điểm, xếp thứ 66, đứng trên các nước châu Á khác là Pakistan, Campuchia, Philippines, Sri Lanka, Lào và Bangladesh (xếp thứ 123). Trong bảng xếp về rủi ro ngắn hạn này, các nước châu Á đứng trên Việt Nam là Trung Quốc (điểm cao nhất 90, xếp thứ nhất), Singapore (5), Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản, Hồng Kông, Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ, Úc và Indonesia. Trong khi đó, về dài hạn, danh sách của BMI cho Việt Nam 54.8 điểm, xếp thứ 70, ngang Philippines. Đáng chú ý khi nói về ổn định dài hạn, BMI lại có đánh giá cao hơn dành cho các nước như Bangladesh (hạng 64), Pakistan, (63), Indonesia (43), Thái Lan (34), Trung Quốc (10), Malaysia (8), Singapore (1). | CÁC BÀI LIÊN QUAN ![]() 15 Tháng 3, 2006 | Kinh tế ![]() 15 Tháng 3, 2006 | Việt Nam ![]() 23 Tháng 3, 2006 | Kinh tế ![]() 24 Tháng 3, 2006 | Kinh tế ![]() 21 Tháng 3, 2006 | Việt Nam ![]() 24 Tháng 3, 2006 | Việt Nam TRANG NGOÀI BBC BBC không chịu trách nhiệm về nội dung các trang bên ngoài. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||