http://www.bbcvietnamese.com

26 Tháng 5 2004 - Cập nhật 10h17 GMT

Lê Quỳnh
Ban Việt ngữ đài BBC

Vấn đề phe nhóm trong lịch sử Anh - Việt

Tiếp tục chủ đề mà bài viết của GS. Ralph B. Smith đặt ra, phần ba này sẽ đề cập vấn đề phe nhóm và sự trung thành với chính quyền.

Quyền lực không bao giờ đơn thuần chỉ là kết quả của sự giàu có và kiểm soát đất đai: nó còn phụ thuộc khả năng kiểm soát các định chế và dân chúng.

Còn khả năng phát động chiến tranh để diệt đối thủ, hay chống lại chính ngai vàng, lại liên quan khả năng xây dựng một quân đội tách khỏi kinh đô. Trong khi đó, khả năng ảnh hưởng hay chế ngự cung đình phụ thuộc việc một cá nhân có thể lũng đoạn các định chế của chính quyền như thế nào.

Thay đổi ở Anh
Tại Anh, khía cạnh nói trên trong bản chất của quyền lực đã thay đổi một cách căn bản trong thời gian từ 1460 đến 1560. Quyền kiểm soát về mặt lãnh thổ, tuy từng là hình thức quyền uy quan trọng nhất trong thế kỷ 12, 13, đã bắt đầu sút giảm tầm quan trọng.

Vào thế kỷ 16, có ba hình thức quyền lực hay đỡ đầu khác: cộng đồng cấp hạt, tập hợp nhóm người phục vụ dưới trướng một quý tộc, và các chức vụ mà chính quyền bổ nhiệm.

Ở mức địa phương, tầm quan trọng của hạt tăng lên và trở thành tiêu điểm của hệ thống pháp lý và hành chính địa phương.

Quyền lực của một quý tộc trở nên ít phụ thuộc hơn vào số đất đai anh ta sở hữu, mà phụ thuộc nhiều hơn vào số lượng người nuôi trong nhà đồng thời vào ảnh hưởng mà một bá tước có thể có trong triều đình.

Sự đỡ đầu – hiểu theo nghĩa là khả năng đưa đồ đệ của mình vào các chức vụ nhà nước – ngày càng trở nên quan trọng trong giữa thế kỷ 16. Tuy nhiên, dừng lại ở năm 1560, sự thay đổi trong bản chất của việc đỡ đầu có một hiệu ứng chung là củng cố vị trí của ngôi vua. Lý do là vì nó chấm dứt thời kì khi một nhà quý tộc có thể dùng quyền lực để xây dựng quân đội riêng.

Phe nhóm ở Việt Nam
Trong các cuộc xung đột chính trị ở Việt Nam, yếu tố quan trọng là chức vụ mà anh giữ trong bộ máy và việc làm thành viên trong một phe cánh (clan).

Giả sử nếu chức vụ quan tước là yếu tố quan trọng duy nhất, và sắc lệnh hoàng gia là cách duy nhất để tiếp cận các nguồn tài nguyên, Việt Nam có lẽ đã là một thực thể chính trị ổn định hơn (như trường hợp ở Xiêm La nơi mà quan hệ họ hàng không có tầm quan trọng bằng ở Việt Nam).

Nhưng tại Việt Nam, cơ cấu thị tộc ít nhất cũng quan trọng như hình thức chiếm hữu của đại quý tộc phong kiến tại Anh. Quan hệ họ hàng là nền tảng của việc thờ cúng tổ tiên. Những người trong họ gắn kết với nhau bởi một sự trung thành mà thông thường va chạm với sự trung thành dành cho ngôi vua. Sự trung thành giữa những người trong họ tập trung vào một trung tâm khu vực, bởi vì mọi gia đình buộc phải duy trì mộ tổ tiên.

Điều này giúp giải thích vì sao họ Trịnh và họ Nguyễn, và cả phe nhà Lê, có nền tảng sức mạnh tại tỉnh Thanh Hóa. Họ có các khoảnh đất riêng rất lớn ở đó; nhưng quan trọng nhất, họ có họ hàng tại đó.

Linh động hay cứng nhắc
So với hình thức chiếm hữu của đại quý tộc phong kiến tại Anh, cũng như so với ba hình thức bảo trợ mới xuất hiện ở Anh mà ta đã bàn ở trên, phe đảng ở Việt Nam là một nhóm chính trị tương đối cứng nhắc.

Để so sánh, sự chiếm hữu của đại quý tộc có thể được tạo ra hoặc bị phá bỏ tùy ý; ngay cả sự chiếm hữu về lãnh thổ cũng có thể thâu nạp các môn đồ mới thông qua việc một chúa tể hùng mạnh sẽ ban phát đất đai hoặc gia trang mới chọ họ. Một ông trùm mới nổi luôn luôn có thể thu hút thêm thuộc hạ mới, và những người mới gia nhập ngay lập tức sẽ trở thành thành viên ngang hàng trong nhóm được ông trùm bảo trợ.

Nhưng còn quan hệ thị tộc lại phụ thuộc vào dòng dõi, và tuy một giọt máu đào hơn ao nước lã, nhưng máu thịt không thể là nền tảng cho một cộng đồng năng động mà bất kì ai cũng có thể gia nhập tùy ý. Để là thành viên đầy đủ của một thị tộc, người ta phải sinh ra trong họ ấy. Bất kỳ ai không sinh ra trong họ ấy thì cũng đều có thể đã có một sự trung thành dành cho một phe khác.

Như vậy, đối với một phe đảng, yếu tố trung thành có thể giúp nối kết một nỗ lực chính trị chung, nhưng nó cũng có thể gây ra chia rẽ.

Chế độ quân chủ Việt Nam dựa trên việc nắm ngôi vua của một phe nhóm trong một đất nước có nhiều phe cánh. Đó là lý do căn bản nhất cho sự yếu ớt của chế độ quân chủ trong giai đoạn thế kỷ 16 và có lẽ trong cả các thời kì khác.

Nhà Trần thế kỷ 13 tìm cách bảo tồn ngôi báu bằng chính sách hai phần: một là sự thoái vị của nhà vua khi đang còn minh mẫn để ông sẽ là thượng hoàng và giúp nâng đỡ người kế vị; hai là kết hôn giữa người trong họ. Nhưng dù phòng xa như thế, nhà Trần cũng không thể tồn tại mãi. Đến giữa thế kỷ 14, nhà Trần không còn thượng hoàng vì một vị vua đã qua đời trước khi thoái vị để làm thượng hoàng. Khi đó, một phe cánh từ Thanh Hóa được phép tiến cung hai hoàng phi, và cháu của họ (Hồ Quý Ly) sau đó lật đổ nhà Trần.

Lịch sử tranh chấp chính trị dưới chế độ quân chủ Việt Nam cho thấy không có cách nào ngăn cản các phe bên ngoài làm suy yếu, đe dọa hay cướp thẳng ngôi vua. Ngay cả một hệ thống tập trung hóa cao độ cũng không thể ngăn chặn điều này, bởi vì có một sự liên hệ chặt chẽ giữa sự bảo trợ của phe nhóm với quan tước.