09 Tháng 5 2005 - Cập nhật 14h49 GMT
Dịch giả Hoàng Thúy Toàn, sinh năm 1938, từng dịch nhiều tác phẩm thơ và văn xuôi từ tiếng Nga sang tiếng Việt kể với Nguyễn Giang về thời gian đến Liên Xô:
Chúng tôi sang vào lúc Stalin mất được một năm, đó là thời kỳ của đại hội 20 đảng Cộng sản Liên Xô, gọi là thời ‘tuyết tan’ như lời Ehrenburg. Tôi học từ năm 1954 đến 1961. Đó là thời kỳ hết sức sôi nổi, nhiều sự kiện xảy ra.
Thưa ông, đó cũng là giai đoạn văn học Liên Xô đã khởi sắc trở lại, nhất là sau khi các nhân vật nổi tiếng trên văn đàn bị tù đày thì đã được thả về, có người vì là gốc Do Thái mà bị tù, thì ông tiếp nhận những sự kiện đó như thế nào?
Nó mới chỉ là thời kỳ ‘tuyết tan’ thôi. Tất cả mới chỉ bắt đầu. Nhưng với tuổi trẻ chúng tôi thì chúng tôi được thấy một thời kỳ khởi sắc của thơ ca Nga. Ngày trước nó đã để lại những tên tuổi lớn, từ cuối thế kỷ 19 đầu 20, được gọi là thời kỳ Vàng, rồi đến thời kỳ Cách mạng, sau là Chiến tranh Vệ Quốc, nhưng đến thời nửa sau của thập niên 50 thì đúng là thời kỳ Thơ Ca Mới, các ngôi sao nổi lên, thơ ca lên diễn đàn.
Thơ ca ra sân khấu, bắt đầu có những ngày hội thơ của Nga. Đấy là một thời kỳ đặc biệt ấn tượng. Nhiều tác phẩm lớn xuất hiện, trong đó có cả những tác phẩm không được in trong nước như của Boris Pasternak, như cuốn Doctor Zhigavo, phải in ở nước ngoài. Nhưng đó là thời kỳ rất ấn tượng.
Ngoài tác phẩm của Pasternak bị cấm thì các tác phẩm khác vẫn thuộc trào lưu tin tưởng, kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội có đúng không thưa ông?
Vâng, đó là một luồng gió mới đang phất lên mà sau này người ta gọi là xét lại, cho đến tận 1964. Nhưng rõ ràng là một sự thay đổi ngập ngừng, đã bỏ sùng bái cá nhân của Stalin thì lại có sùng bái Nikita Khrusov. Nhưng lực lượng các nhà thơ trẻ cứ bung ra. Không thể tưởng tượng được là thơ mà lại được đọc tại sân vận động Lênin, trước hàng nghìn người.
Thế khi trở về Việt Nam thì ông có dịch các tác phẩm của thời kỳ đó, giới thiệu cho độc giả Việt Nam hay không?
Tôi thì tôi yêu văn học cổ điển, rồi lại học trong trường thì vẫn học thơ ca Chiến tranh Vệ quốc, tôi theo cả một seminar về Chiến tranh Vệ quốc. Về nước thì đất nước đang chiến tranh, tôi tập trung vào các tác phẩm như thế. Tôi là người Việt Nam, một thanh niên được nhà nước, được nhân dân cho đi học thì mình vẫn hướng về đất nước của mình. Lúc đó là một đất nước đang sôi sục những chí hướng tuổi trẻ nên tôi vẫn dịch thơ Pushkin, các nhà thơ Yesenin, Gamzatov, tôi dịch cả Lermontov, Chuchev, Nekrasov, và bên cạnh đó tôi dịch cả văn xuôi, theo đề tài trẻ em.
Thế còn bài nổi tiếng của Konstantin Simonov (1914-1979) được ai dịch và dịch ra tiếng Việt khi nào?
Đó là bài của nhà thơ Tố Hữu dịch từ bản tiếng Pháp sang tiếng Việt khoảng năm 1949-50. Bản dịch rất đạt, dù sau này có nhiều người chỉ ra là bản dịch đó chưa chuyển hết ý của Simonov. Nhưng tôi vẫn cho rằng đó là một bản dịch đạt, bản dịch hay. Bởi vì quan niệm của tôi là: dịch và nguyên bản là hai tác phẩm độc lập. Không có gì trùng hợp, bản dịch của Tố Hữu là một tác phẩm trong tiếng Việt, truyền đạt tứ thơ của Simonov thôi.
Ông tâm đắc với tác phẩm dịch nào nhất của mình?
Năm 66 tôi dịch tập thơ trữ tình Pushkin. Cho đến nay nhiều bài trong đó đã được in vào sách giáo khoa, được in đi in lại ở các tuyển tập. Có nhiều người còn chép vào sổ tay v.v. những câu như
Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu
Trước mắt anh em đã hiện lên
Như ảo ảnh mong manh vụt biến
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong
Có lẽ cũng nhờ những bài đó mà tôi được ‘thơm lây’ (cười).
Những tác phẩm được dịch từ tiếng Nga và các tiếng Đông Âu khác đã góp phần vào việc xây dựng nền văn học xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải không ạ?
Đúng thế. Cái đó không phải là chúng tôi nghĩ, mà nhiều nhà văn Việt Nam phải thừa nhận. Ảnh hưởng của văn học Nga, văn học Xô Viết, văn học các nước Đông Âu, mà trước hết là văn học bằng tiếng Nga, nó đối với tâm hồn người Việt Nam, người sáng tác ở Việt Nam sâu đậm lắm.
Những hướng văn chương, bút phát của các nhà văn Nga cũng ảnh hưởng đến các nhà văn Việt Nam. Nói đến Paustovsky thì ai mà không biết qua tác phẩm dịch của anh Vũ Thư Hiên, các anh Mộng Quỳnh, Phạm Mạnh Hùng…
Ông muốn nói đến cuốn Bông Hồng Vàng của Konstantin Paustovsky do Vũ Thư Hiên dịch?
Đúng. Ngoài ra là những tác phẩm như Sông Đông Êm Đềm, Đất Vỡ Hoang… ảnh hưởng lớn lắm đến Việt Nam. Hay các tác phẩm của những nhà văn từng tham gia chiến đấu, trong chiến tranh thì cũng ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Nhiều khi nó ảnh hưởng rất trực tiếp đến sáng tác của một nhà văn Việt Nam. Ví dụ ‘Bức Thư’ của Chí Trung rõ ràng là chịu ảnh hưởng của ‘Bức Thư’ của Gortbatov.
Hay ông Thép Mới dịch Ehrenberg nhiều mà cũng ảnh hưởng của Ehrenburg nhiều. Các nhà thơ Bằng Việt, Anh Ngọc, Thu Bồn chẳng hạn, chịu ảnh hưởng của văn học Nga nhiều lắm.
Ngoài những ảnh hưởng mà mình nói là tích cực đó thì cũng có những ảnh hưởng chưa được tích cực như sùng bái lãnh tụ, tệ công thức du nhập Việt Nam có phải không?
Cái đấy nếu đi sâu vào thì nó cũng có. Việc miêu tả ‘thời sự’ là có. Nhưng theo tôi đó là đòi hỏi của giai đoạn lịch sử. Khi làn gió mới vào thì có những ảnh hưởng tốt đấy nhưng cũng có những ảnh hưởng ‘không có lợi cho sức khoẻ’. Như văn học Pháp cũng vậy, bao nhiêu năm ta nói ta chịu ảnh hưởng của Pháp nhưng ít ai đã nghiên cứu xem ảnh hưởng không tích cựu là thế nào.
Với văn học Nga và Xô-Viết, tác động không tích cực đến lý luận trong văn học Việt Nam là có. Ta có một thời khô cứng, theo lối ‘hiện thực xã hội chủ nghĩa’. Mà từ lý luận văn học, từ cái nhìn hiện thực xã hội một cách máy móc thì nó sinh ra vấn đề như vậy trong phương pháp, và nó ảnh hưởng ngược lại sáng tác.
Thế còn thời kỳ Gorbachov ở Nga thì những tác phẩm đổi mới hay được đưa ra khỏi bóng tối cũng có tác động đến văn học, văn nghệ Việt Nam phải không thưa ông? Có người nói Trái Tim Chó của Bulgakov và Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có nhiều điểm giống.
Thời kỳ Công khai, thời kỳ Perestroika thì văn học Xô Viết có mấy khuynh hướng. Một là in lại các tác phẩm trước bị ‘để trong ngăn kéo’. Đó là các tác phẩm của Bulgakov, Granin, v.v. Hai là sáng tác mới. Chúng ta ở Việt Nam đã dịch rất nhanh. Ở Liên Xô vừa ra là ở Việt Nam có ngay. Thậm chí sách tập hai dịch trước, in trước tập một như Đoạn Đầu Đài của Aimatov. Đấy là một cái nhậy bén trong tiếp thu Đổi Mới của Việt Nam.
Giai đoạn đó ông dịch tác phẩm nào?
Tôi dịch Vladimir Vysotsky, một trong những nhà thơ ‘có vấn đề’ (cười). Vysotsky có những suy nghĩ rất chân thành, phản ánh cuộc sống có mặt này, mặt kia của Liên Xô. Nó đa dạng trong giai đoạn đó.
Nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng chủ nghĩa phát-xít ở Nga thì ông có thể cho BBC biết suy nghĩ của mình về nước Nga hiện nay hay không?
Nước Nga sau khi Liên Xô không còn thì rõ ràng đang tìm tòi một hướng đi, rất vất vả. Lịch sử Nga là một lịch sử đẫm máu và đẫm nước mắt. Người Nga luôn tìm kiếm và họ luôn đi tìmvà trải qua những vất vả trong việc tìm kiếm đó. Nhưng người Nga là một dân tộc rất chân thành.
Tôi tin rằng là những năm vừa qua họ phải trả giá nhưng họ sẽ tìm ra con đường mới và họ sẽ đi vững vàng. Có người hỏi tôi là văn học Nga nay có gì mới. Tôi nói là nhiều lắm chứ. Họ vẫn sáng tác, vẫn làm nhiều lắm. Còn nói là đỉnh cao đâu thì phải chờ đợi chứ, có phải ‘hàng chợ’ đâu mà có ngay được.
Các tạp chí văn học thời Xô-Viết nay vẫn ra đều ở Nga đấy chứ, có điều là trước kia hàng triệu bản thì nay hàng vạn hay hàng nghìn bản thôi. So với ngày xưa thì xuống quá nhưng nó vẫn không chết. Văn học Nga, thơ, truyện ngắn, và chủ yếu là tiểu thuyết vẫn ra. Mỗi năm vẫn có hàng trăm tiểu thuyết. Rồi đây tôi nghĩ rằng văn học Nga sẽ trở lại một vị trí nào đấy, đáng để mọi người học tập.
Xin cảm ơn dịch giả Thúy Toàn!