|
Đỗ Minh Nam tham gia Diễn đàn BBC | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Việt nam có tự do tôn giáo hay không? Tôi không thông minh lắm nên cứ phải đọc hết ý kiến của các vị trên diễn đàn này, sau đó còn bàn bạc (thực ra là cãi cọ) với tụi bạn và cuối cùng cái gì vẫn chưa tỏ thì chạy về nhà hỏi... ông già (sanh ra tôi) - rồi mới dám phát biểu đôi câu. Theo một tín ngưỡng nào (và không theo tín ngưỡng nào) là quyền tự do của mỗi người. VN ta dưới sự lãnh đạo của đảng CS đã long trọng ký vô bản Tuyên ngôn nhân quyền thì ắt là phải thực hiện nghiêm chỉnh quyền tự do tôn giáo, không bao giờ lại ký bừa để tỏ ra bên ngoài "ta đây" cũng tiến bộ như ai, nhưng bên trong lại làm ngược lại. Bởi vì hành xử như vậy thực chất là lừa bịp dân trong nước, cũng như cả thế giới, điều mà đảng ta rất dị ứng. Là người, chẳng ai muốn mang tiếng lừa bịp, huống hồ lại là lừa bịp thật sự. Những tôn giáo lớn xuất hiện hàng mấy ngàn năm nay và đang có hàng tỷ tín đồ. Chúng ta không được phép nói hàng tỷ người này là mê muội. Giáo lý của bất cứ tôn giáo nào cũng khuyên người ta sống nhân ái, trong sạch, thực hiện những điều cao quý và hướng thiện (dù khá ảo tưởng). Đó mới là nguyên nhân thật sự để hàng tỷ người trở thành tín đồ. Niềm tin tôn giáo là một trong những niềm tin mãnh liệt nhất của con người và đã có từ rất xa xưa. Chủ nghĩa Mác-Lênin thì coi tôn giáo là "thuốc phiện" đầu độc nhân dân – vì trong khi chủ nghĩa này chủ trương sử dụng bạo lực của chuyên chính vô sản để đánh đổ và tiêu diệt bóc lột (bọn bóc lột ở địa vị thống trị không bao giờ tự cải tạo và tự giác dâng hiến chính quyền và tư liệu sản xuấ! t cho giai cấp vô sản; do đó, bạo lực và đấu tranh giai cấp là phương cách duy nhất xoá bỏ bóc lột)... thì tôn giáo lại khuyên mọi người không dùng bạo lực mà dùng lòng khoan dung, từ bi, thiện tâm để cải tạo cái ác. Đảng CS muốn dân chúng nổi dậy, vùng lên theo đảng phá bỏ triệt để xã hội cũ, xây dựng xã hội mới ngàn lần tốt đẹp hơn... thì tôn giáo lại khuyên người ta cam phận, hy vọng rằng ở hiền sẽ gặp lành, dẫu kiếp này khổ ải thì kiếp sau sẽ được đền bù. Do vậy niềm tin tôn giáo mâu thuẫn với niềm tin vào chủ nghĩa Mác. Cách xử thế của tôn giáo trái với cách tiến hành cách mạng của đảng. Tất cả các đảng CS một khi đã "cướp" hoặc "giành giật" được chính quyền (từ ngữ của đảng, nói lên biện pháp... không thèm tranh cử) thì chỉ muốn toàn dân chung một ý chí "tiến nhanh, ti! n mạ nh" lên CNXH (mà đảng thành thật tin rằng nó đem lại hạnh phúc cho toàn dân), do vậy chưa có một đảng nào không có một loạt chính sách hạn chế (quản lý cho chặt), rồi tiến tới xoá bỏ tôn giáo. Sốt ruột tiến lên CNXH bao nhiêu thì cũng sốt ruột xoá bỏ tôn giáo như thế. Ngay sau khi chiếm được miền nam, đảng ta đã vội vã đổi tên nước (nước XHCN), đổi tên đảng (từ Lao Động thành CS), đổi tên đoàn Thanh Niên, thay hiến pháp mới... nói lên sự sốt ruột đó. Một điều khác cần nói là trong lịch sử, giữa các tôn giáo cũng có sự kỳ thị lẫn nhau nhằm tranh chấp và lôi kéo tín đồ. Mỗi tôn giáo đều có vô số vị tu hành "tử đạo" sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ đạo, hoặc để tuyên truyền đạo, hoặc đẻ chống lại bọn "tà đạo". Cuộc chiến tranh Thập tự chinh thực chất là cuộc chiến tranh tôn giáo, trong đó phe (tự nhận là) chính đạo đem vũ khí đi xa hàng ngàn dặm với "sứ mệnh" trừng trị "bọn tà đạo". Khi nhà Đường bên Tàu coi đạo Phật là quốc đạo thì lập tức các đạo khác bị đạo chính thống mượn tay chính quyền đàn áp thê thảm ngay (điều này lịch sử đã ghi và còn được phản ánh trong truyện Tề Thiên đại thánh (tín đồ đạo Phật) đã tiêu diệt không thương tíếc mọi "bọn yêu ! ma tà đạo" khác). Nhân loại đã trải qua một quãng đường dài trên con đường văn minh hoá, đến nay giữa các tôn giáo đã giảm rất nhiều việc tranh chấp niềm tin bằng bạo lực. Khi các nước cộng sản sụp đổ, cả thế giới sáng tỏ nhiều điều, trong đó có một điều là... những người cộng sản chân chính nhất, có niềm tin vào chủ nghĩa Mác một cách tuyệt đối nhất, với ý chí giải phóng toàn nhân loại một cách nhiệt thành nhất... đã biến chủ nghiã Mác-Lênin thành một tôn giáo mới. Giáo lý cộng sản cũng rất nhân bản (và ảo tưởng) như mọi giáo lý khác. Số người tin theo hệ thống giáo lý này cũng có thời lên tới hàng tỷ. Cũng đã từng có hàng triệu đảng viên cộng sản hiên ngang tử vì đạo, bất kể tù đầy, thậm chí gươm kề cổ, súng kề tai. Tác phẩm của Lênin bằng mọi thứ tiếng xuất bản trong vòng 70 năm nhiều hơn số kinh thánh in ra trong mấy trăm năm. Sự tranh chấp tín đồ với các tôn giáo khác cũng rất quyết liệt (cha tôi h! i nhỏ đi lễ chùa, nay theo tôn giáo của cụ Mác). Tuy vậy, chúng ta không được phép gọi hàng tỷ tín đồ của cụ Mác, cụ Lênin (hay của bất cứ tôn giáo nào) là ngu dốt, mê muội, ngoan cố (trừ khi họ tự gọi nhau, hoặc tự nhận như thế). Một điều khác cũng được sáng tỏ: Số ít nước cộng sản sống sót sau vụ đổ dây chuyền ở thập kỷ 80 là những nước thoát thai từ nông nghiệp lạc hậu, tư tưởng phong kiến, do vậy, còn hằn sâu trong đầu óc dân chúng. Do công lao giải phóng dân tộc khỏi ách thuộc địa, nên dân chúng các nước này coi các lãnh tụ CS là thánh nhân để tôn thờ, coi đảng của thánh nhân như cứu tinh mang mệnh trời xuống trần cứu khổ, cứu nạn. Trong các cuộc tranh luận chính trị ở các nước CS, ai trích được một câu của Mác, Lenin, Engel hoặc của! các thánh (cụ Mao. cụ Kim, cụ Hồ hay cụ Fidel) đều có tác dụng như mảnh băng keo dán vô miệng đối phương. Đó là thời thịnh trị của giáo lý. Nay, cả hai phía cùng trích Mác, Lenin và các thánh để cãi lại nhau, mở màn cho sự phân rẽ nội bộ. Cụ Võ Văn Kiệt và nhiều cụ cộng sản khác rất tài giỏi khi trích đẫn cụ Hồ để phê phán các cụ đương quyền. Cách này tỏ ra an toàn cho người phát biểu trước mọi sự đàn áp tư tưởng; lại rất hữu hiệu vì đa số dân ta còn ngưỡng vọng cụ Hồ, nên họ coi các cụ trong Bộ chính trị là "làm trái lời thánh dạy". Một tôn giáo dựa vào cường quyền đã đủ tác quái, nếu một tôn giáo "cướp" được chính quyền thì sự kỳ thị các tôn giáo khác (lẽ ra, đó là tôn giáo "bạn") ắt càng gay gắt và quyết liệt hơn. Đó là thực chất bên trong. Nhưng ở thời đại văn minh này, cũng phải có sự che dấu bên ngoài. Không một hiến pháp của một nước CS nào lại không nói nghiêm trang về tôn trọng tự do tôn giáo. Khi đã độc quyền lấy tiền thuế của dân (thực chất, phần nhiều do các tín đồ tôn giáo khác đóng góp) để in ấn và phổ biến giáo lý của riêng tôn giáo mình, độc quyền tư tưởng, cấm nói khác giáo lý chính thống, lại có quyền đưa giáo lý vào chương trình giáo dục phổ thông và đại học, thậm chí có quyền đưa giáo lý mình vào các giáo lý khác (như khẩu hiệu to tướng ở chùa Quán Sứ: Phật pháp, Dân tộc và CNXH)..., thì chẳng cần thảo luận có tự do tôn giáo hay không nữa. Một tôn giáo lúc đầu dù có đông đảo tín đồ bao nhiêu, nhưng không được tự do giảng đạo, truyền đạo, không được tự do đào tạo tu sĩ, in ấn giáo lý... thì rốt cuộc sẽ teo đi. Nước Nga sau 70 năm, số tín đồ từ 90% dân số cuối cùng chỉ còn vài phần trăm dân số. Muốn biết có tự do tôn giáo hay không, chớ nhìn bên ngoài (tha hồ cầu kinh, hành lễ) mà hãy hỏi các tu sĩ. Họ có niềm tin tôn giáo mãnh liệt (như cụ Trần Phú tin lý tưởng CS của cụ), trong số họ nhiều người sẵn sàng tử đạo (như cụ Nguyễn Văn Cừ trong xà lim thực dân Pháp), do vậy họ rất nhạy cảm với tự do tôn giáo, lập tức cảm thấy khó thở mỗi khi mất quyền tự do tôn giáo. Thì ra, quyền tự do theo đạo chỉ là phần nhỏ quyền tự do tôn giáo. Lập lờ đánh lận điều này dường như có ý lừa bịp, làm lẫn lộn khái niệm. Ta dễ hiểu vì sao các ông già "gàn dở", "ngoan cố" thời nay (như cụ Quảng Độ, Huyền Quang, Chân Tín... lại hành xử như cụ Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ... thuở xưa trước thực dân Pháp vậy. Nhận thức của tôi mới có vậy. Tôi sẽ học hỏi thêm và sẵn sàng từ bỏ những gì nhận thức chưa đúng. | CÁC BÀI LIÊN QUAN Ông Hoàng Minh Chính phản hồi11 Tháng 11, 2005 | Nghe các tạp chí Mỹ 'quan tâm đặc biệt' tôn giáo Việt Nam 09 Tháng 11, 2005 | Việt Nam Đại sứ Hoa Kỳ trả lời báo Việt Kiều11 Tháng 11, 2005 | Việt Nam Báo Việt Nam đả ông Hoàng Minh Chính25 Tháng 10 , 2005 | Việt Nam | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||