19 Tháng 7 2005 - Cập nhật 21h16 GMT
Lâm Yến
Giữa những ngày giữa hè nóng bỏng này, trong khi một số “nhà bất đồng chính kiến” (hay còn được gọi là các nhà dân chủ) đang hưởng giây phút vinh danh và tự do giao kết ít ỏi tại bữa tiệc chiêu đãi do Lãnh sự quán Hoa Kỳ tổ chức nhân ngày Quốc khánh Hoa Kỳ [1] thì hai nhân vật nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ là Đỗ Minh Tuấn và Trần Mạnh Hảo lại đang kịch chiến trên trang mạng Talawas và công khai phê phương án chế độ và bày tỏ quan điểm ly khai chính thống của mình.
Trong khi đó, “con hùm xám đường 4” một thời, cựu sỹ quan Đặng Văn Việt lại chọn đài RFA để phàn nàn rằng việc hệ thống tiếp tục bám víu lấy những quan điểm lạc hậu như độc quyền lãnh đạo [của Đảng Cộng sản] đang gây cản trở sự phát triển của xã hội [2] .
Cách đây không lâu, nghệ sĩ nhân dân Trần Văn Thuỷ [3] còn chọn VietnamNet - một diễn đàn chính thống của chế độ - để thẳng thừng chỉ trích rằng hệ thống chính trị hiện tại không hề có dân chủ.
Những diễn biến như thế cho chúng ta một không khí dân chủ sôi nổi và khiến chúng ta có cảm tưởng lạc quan rằng phong trào bất đồng chính kiến của Việt Nam hẳn đang có dấu hiệu lớn mạnh và các trí thức/văn nghệ sĩ cùng các cựu chiến binh ngày càng sẵn sàng lên tiếng ly khai chính thống.
Có thực sự là phong trào dân chủ đang tiến những bước dài rất đáng lạc quan không? Bài nghiên cứu này muốn đưa ra một cách nhìn khác về bất đồng chính kiến ở Việt Nam và tập trung phân tích sự hình thành của không gian công phi chính thống cũng như vai trò tiềm tàng của nó trong việc đem lại sự chuyển biến về chất cho “phong trào” bất đồng chính kiến.
Bất đồng chính kiến ở Việt Nam
Năm năm trước, trong một nghiên cứu hiếm hoi về phong trào bất đồng chính kiến ở Việt Nam, Zachary Abuza nhận xét rằng bất đồng chính kiến ở Việt Nam còn non trẻ, yếu ớt, không được giới trí thức ủng hộ và bị chia rẽ do nguồn gốc đa dạng và phức tạp của những người tham gia phong trào này. Khi nói về hiện trạng và thiếu sót của phong trào, ông viết:
“… có ít trí thức dám thò cổ ra thách thức lại nhà nước vì nhà nước kiểm soát công ăn việc làm của họ. Đây là một khó khăn thực sự nếu [phong trào bất đồng chính kiến] muốn đạt được cơ sở ủng hộ rộng rãi hơn từ giới tinh hoa nhằm kêu gọi nhà nước thay đổi các chính sách hiện hành của họ. Như ông Tiêu Dao Bảo Cự, một nhà bất đồng chính kiến từng than thở: “Trong cuộc đấu tranh cho dân chủ ngày hôm nay, trí thức đáng lẽ ra phải nắm ngọn cờ đầu. Nhưng liệu có phải thế không? Hay là ngược lại? Phải chăng sâu thẳm bên trong, trí thức ghét sợ dân chủ, vì dân chủ có thể đưa đến việc họ bị mất các đặc quyền đặc lợi vốn được coi là của riêng họ qua bao đời.” Ông đã đưa ra một nhận định quan trọng. Lý do gì khiến các nhà bất đồng chính kiến không huy động được nhiều người đi theo mình? Lý do nằm ở sự thiếu sót của phong trào: Họ gặp khó khăn thực sự khi làm việc cùng với nhau. Điều này dễ hiểu thôi nếu chúng ta biết tất cả các nguồn gốc bất đồng xuất phát từ đâu. Các nhà bất đồng chính kiến bao gồm những động viên cộng sản kỳ cựu, những người ủng hộ chế độ Sài Gòn cũ, các tu sĩ Phật giáo và các trí thức chỉ muốn quyền tự do bày tỏ ý kiến. Họ thường không tin tưởng nhau, và do bị chia rẽ, Hà Nội có thể cô lập và kiểm soát họ.” [4]
Abuza đã đúng khi nhận định rằng thành phần bất đồng chính kiến của Việt Nam rất đa dạng và chính vì thế, họ hầu như không tìm được tiếng nói chung. Ngoài nguồn gốc đa dạng và số lượng ít ỏi mà Abuza đã đề cập (ít nhất 54 người theo Ân xá Quốc tế và khoảng 200 người theo Bộ Ngoại giao Mỹ [5] ), bất đồng chính kiến ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại còn có hàng loạt những bất lợi khác: Thứ nhất, họ sống rải rác trên nhiều địa phương khắp cả nước, từ Hà Nội, Hải Phòng tới Đà Lạt, Sài Gòn. Hà Nội và Sài Gòn là 2 thành phố tập trung các nhà bất đồng chính kiến đông đảo nhất. Tuy nhiên, trong số những người có tên tuổi được biết đến rộng rãi, thì ngay cả ở hai thành phố này, con số cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Thứ hai, nghiên cứu của Abuza cho thấy phần lớn trong số các nhà bất đồng chính kiến là những người cao tuổi. Trong số 25 nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất mà Abuza khảo sát năm 2000, độ tuổi trung bình của họ là 62 [6] . Gần đây có xuất hiện một số nhân vật trẻ tuổi hơn, nhưng số này nhanh chóng bị bỏ tù với những mức án nặng nề. Có người sau khi ra tù đã không tiếp tục lên tiếng nữa (ví dụ trường hợp của Lê Chí Quang).
Với tư cách là một nhà quan sát nước ngoài, những nhận xét của Abuza đã là những đóng góp tiên phong, rất hữu ích cho một hướng nghiên cứu xã hội còn đang bỏ ngỏ ở Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng những hạn chế sâu sắc khiến cho các nhà bất đồng chính kiến không thể “huy động được nhiều người đi theo mình” không chỉ bao gồm số lượng ít ỏi và sự đa dạng về nguồn gốc như Abuza chỉ ra [7] .
Trong tiểu luận này, chúng tôi xin bổ sung thêm những hạn chế khác của bất đồng chính kiến ở Việt Nam.
Một điểm dễ nhận thấy là các nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam chưa bao giờ được dân chúng coi là các biểu tượng cho đạo đức và lương tri dân tộc. Dĩ nhiên họ cũng có một số cảm tình viên từ các tầng lớp xã hội, nhưng hào quang của họ không vượt ra ngoài những vòng gia đình và bè bạn và những người đã biết về họ khá rõ. Một phần lớn những người ít biết về các nhà bất đồng chính kiến này khi nghe nói đến các hành động/quan điểm của họ thì hoặc cho họ là những người gàn dở bất đắc chí, hoặc ít nhiều nghi kỵ về động cơ của các nhà bất đồng chính kiến khi họ chọn cho mình con đường đối lập trực diện với hệ thống. Vì thế, ở mức độ nào đó, họ bị cô lập khỏi xã hội và không được các thành phần xã hội khác như sinh viên, trí thức, công nhân và nông dân ủng hộ.
Điểm bất lợi thứ tư là họ không có hoặc có rất ít sáng kiến vận động xã hội, và do đó thường chỉ khẳng định lập trường bất đồng bằng một số bài viết và dừng lại ở đó. Thực ra, điều này cũng dễ hiểu nếu chúng ta đã nhận ra các điểm yếu trước như không có tiếng nói chung, sống tản mát khắp nơi, tuổi cao và bị quản chế chặt chẽ. Sáng kiến vận động xã hội cần có môi trường màu mỡ để hình thành, và một trong những điều kiện tiên quyết là cần có môi trường để thảo luận/trao đổi và cọ xát. Việc đứng ra xin lập Hội Nhân dân Việt Nam ủng hộ Đảng và Nhà nước chống tham nhũng” của hai ông Trần Khuê và Phạm Quế Dương [8] có thể coi là một trong những sáng kiến ít ỏi xuất hiện trong điều kiện tương đối thuận lợi của những năm 2001-2002, khi Đảng cộng sản còn đang bối rối với những chỉ trích gay gắt về vấn đề biên giới và cơ cấu quyền lực trong bộ máy còn đang trong giai đoạn củng cố sau Đại hội IX. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp của sáng kiến này thì số người ký đơn quanh quẩn vẫn là các nhà bất đồng chính kiến đã có tên tuổi chứ không hề có sự tham gia từ bên ngoài. Sự cô lập của các nhà bất đồng chính kiến (điểm yếu thứ 3 nêu trên) được thể hiện khá rõ ràng trong ví dụ này.
Thứ năm là họ không được tiếp cận hoặc không chủ động tìm cách tiếp cận với các lý thuyết về chuyển đổi dân chủ, với thực tiễn sinh động và các kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào dân chủ/nhân quyền khắp nơi trên thế giới. Thật đáng ngạc nhiên là cho đến thời điểm này, đại bộ phận giới trí thức, bao gồm cả trí thức bất đồng chính kiến chưa biết gì về các khái niệm vốn đã trở thành phổ biến trong các xã hội hiện đại như “xã hội dân sự” (civil society) [9] , “quyền lực của những người không có quyền lực [10] ” (power of the powerless), các lý thuyết về đấu tranh bất bạo động (nonviolence); những thành công vĩ đại, những gương mặt lỗi lạc, nguồn cảm hứng và các bài học kinh nghiệm phong phú của các phong trào đấu tranh dân chủ trên thế giới [11] . Ngay cả Trần Mạnh Hảo, người gần đây đã lên án gay gắt bản chất của chế độ hiện hành [12] cũng suy diễn một cách đơn giản và ngây ngô rằng “xã hội dân sự = xã hội dân làm chủ mọi sự”. Hay như Đỗ Minh Tuấn, trong một bài báo dài khẳng định dứt quát lập trường ly khai chính thống của mình [13] (cái mà ông gọi là “rửa tay gác kiếm”) cũng không rõ ràng hơn. Ông lầm lẫn giữa các thành quả cá nhân, khoảng tự do cá nhân hoặc khả năng gây ảnh hưởng lên hệ thống của cá nhân với tư cách là một người nằm trong hệ thống hoặc gắn bó với hệ thống, sử dụng các quan hệ cá nhân và hướng vào các mục tiêu cá nhân với khái niệm quyền lực của con người trong xã hội dân sự theo nghĩa thực của nó [14] .
Việc thiếu các lý thuyết và các bài học kinh nghiệm của các phong trào dân chủ của thế giới cũng một phần giải thích hiện tượng thiếu sáng kiến vận động xã hội của các nhà bất đồng chính kiến Việt Nam. Nó cũng là một trong những lý do giải thích vì sao không có nhiều nhân vật trong giới tinh hoa ủng hộ hoặc tham gia vào nhóm bất đồng chính kiến. Không được trang bị thông tin và lý thuyết cần thiết, kể cả những người đã “thức tỉnh” cũng cảm thấy bất lực và buông xuôi, không dám quan hệ với những người bất đồng chính kiến thành danh, chứ đừng nói là có ý định trở thành một trong số họ.
Một bất lợi khác của bất đồng chính kiến ở Việt Nam là quan tâm đơn chiều. Tuyệt đại đa số các nhà bất đồng chính kiến tập trung vào phê phán chính trị trực diện với hệ thống thượng tầng. Ngoài hai ngoại lệ hi hữu là hai cuộc vận động chống tham nhũng và chống các hiệp ước về chủ quyền lãnh thổ được cho là bất bình đẳng [15] , họ chủ yếu tập trung vào đòi hỏi tự do báo chí, tự do bày tỏ chính kiến, đòi dân chủ pháp trị. Họ không quan tâm đến các biểu hiện sinh động của sinh hoạt dân chủ trong đời sống, và vì thế, không hướng vào đấu tranh nhằm hình thành hoặc mở rộng các biểu hiện sinh động ấy. Tự do báo chí hoặc tự do ngôn luận là cái xa lạ với những người lao động Việt Nam bình thường, vốn ít khi dành thời gian đọc báo và không quan tâm đến chính trị. Với những người nông dân mất đất do nhà nước thu hồi để xây các khu công nghiệp, thương mại và giải trí, nhu cầu này có vẻ hiện thực hơn. Nhưng tiếc thay, ngoài ngoại lệ hi hữu là Nguyễn Khắc Toàn, một nhà bất đồng chính kiến đang ngồi tù [16] - người đã đứng ra giúp nông dân thảo đơn kêu oan với chính phủ, hoặc Phương Nam, một nhà bất đồng chính kiến mới xuất hiện, gần đây đã chụp ảnh với những người dân quận Bình Thạnh, Sài Gòn ra Hà Nội khiếu kiện, thì chẳng có ai nào đứng ra giúp dân chúng minh biện các nhu cầu của họ và lên tiếng cho các đòi hỏi của họ.
Nếu những bài báo dài dằng dặc trên tạp chí Cộng Sản không hấp dẫn được quần chúng, thì những bài phê phán nghiêm khắc chủ nghĩa Marx của các nhà bất đồng chính kiến đăng trên các trang mạng cũng xa lạ như thế. Cái chính trị mà dân chúng quan tâm là cái chính trị biểu hiện cụ thể trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày chứ không phải cái đúng sai của một học thuyết mà họ chẳng bao giờ quan tâm đến. Vì thế, khẩu hiệu đổi mới chính trị mà những nhà bất đồng chính kiến này đưa ra vừa bị chính quyền hằn học, vừa bị quần chúng thờ ơ. Chúng thiếu cái sinh khí xã hội và trở nên khô cứng không khác gì những giáo điều của hệ thống. Nếu khẩu hiệu mà hệ thống đưa ra là giáo điều thì các khẩu hiệu mà các nhà bất đồng chính kiến đưa ra cũng không kém giáo điều hơn, vì chúng không được chi tiết hoá bằng những diễn biến hiện thực của cuộc sống.
Thứ bảy, họ là những người phê phán hệ thống, nhưng không phải là những người thách thức hệ thống bằng một mô hình khác được minh biện kỹ lưỡng. (Có lẽ Abuza cũng ít nhiều ám chỉ điều này khi ông gọi họ là các nhà đối lập trung thành (loyal opposition)). Các nhà bất đồng chính kiến Việt Nam nhiều khi cũng nói đến một thể chế dân chủ pháp trị thay thế cho thể chế cộng sản, nhưng đã không có một nỗ lực cụ thể nào hướng tới việc nghiên cứu nền dân chủ phương Tây và cấu trúc nên các mô hình dân chủ cho một xã hội phương Đông chậm phát triển và có nhiều điểm đặc thù như Việt Nam. Điều này không phải là khó hiểu, vì các tài liệu nghiên cứu về dân chủ phương Tây bằng tiếng Việt hầu như không tồn tại ở Việt Nam sau năm 1975. Khả năng tiếp cận vào kho kiến thức chính trị của thế giới từ trong nước trở nên cực kỳ hạn chế và đòi hỏi vốn tiếng Anh tốt - là cái mà tuyệt đại đa số các nhà bất đồng chính kiến cao tuổi không có được. Có lẽ Phạm Hồng Sơn là người đầu tiên trong số các nhà bất đồng chính kiến trẻ hơn của Việt Nam đã nhìn ra tầm quan trọng của việc nghiên cứu mô hình thay thế này và ông đã thực hiện việc dịch tập tài liệu “thế nào là dân chủ”. Có lẽ vì Đảng Cộng sản cũng nhìn thấu mối nguy hiểm tiềm tàng của việc hiện hữu một mô hình thay thế, họ đã tống giam ông với mức án hà khắc [17] .
Điều gì khiến bất đồng chính kiến ở Việt Nam mang trong mình những hạn chế như thế? Và làm thế nào để bất đồng chính kiến thực sự là một phong trào với diện mạo mới và sức mạnh mới khác hẳn với giá trị tượng trưng của bất đồng chính kiến hiện nay? Chúng tôi sẽ cố gắng giải quyết những câu hỏi này bằng việc phân tích nguồn gốc của các nhà ly khai, và việc thiếu vắng một không gian công phi chính thống, trong các phần sau.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]RFA: Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn mở tiếp tân có sự tham dự của đại diện tôn giáo và các nhà dân chủ Việt Nam; phát thanh ngày 5 tháng 7 năm 2005
[2]RFA: Cảm tưởng của ông Đặng Văn Việt về Dự thảo Báo cáo Chính trị cho Đại hội 10. Phát thanh ngày 6 tháng 7 năm 2005
[3]VietnamNet: Xây dựng hình ảnh đất nước Việt Nam mới; đưa lên mạng ngày 29 tháng 4 năm 2005
[4]Zachary Abuza: Loyal Opposition: The Rise of Vietnamese Dissidents; Havard Asia Quarterly, Volume IV, No. 2. Spring 2000.
[5]Zachary Abuza: ibid
[6]Zachary Abuza: ibid
[7]Zachary Abuza: ibid
[8]Xem đơn xin thành lập Hội nhân dân ủng hộ đảng và nhà nước chống tham nhũng tại: http://www.ykien.net/vdhchongtn.html
[9]Theo Larry Diamond: “Xã hội dân sự ở đây được hiểu là một mảng của đời sống xã hội có tổ chức, mang tính tự nguyện, tự tái tạo, (hầu như) tự tài trợ, độc lập với nhà nước, và gắn bó với nhau bằng một trật tự pháp lý hay một số nguyên tắc chung. Nó khác với “xã hội” nói chung ở chỗ nó gồm các công dân hành động tập thể trong môi trường công (public sphere) để thể hiện các lợi ích, quan tâm và các ý tưởng của họ, cũng như trao đổi thông tin, giành các mục tiêu chung, yêu sách với nhà nước, và trông chừng các quan chức. Xã hội dân sự là một thực thể trung gian, nằm giữa môi trường tư (private sphere) và nhà nước. Như vậy, nó loại trừ đời sống cá nhân và gia đình, các hoạt động nhóm hướng nội (ví dụ như thể thao, giải trí hay tâm linh), các hoạt động kiếm lời của các doanh nghiệp, và các nỗ lực chính trị nhằm giành quyền kiểm soát chính quyền. Các nhân vật trong xã hội dân sự cần sự bảo vệ bởi một trật tự pháp luật được thể chế hoá nhằm bảo đảm quyền tự trị của họ và quyền tự do hành động. Do đó, xã hội dân sự không chỉ hạn chế sức mạnh nhà nước mà còn đem lại chính nghĩa cho quyền lực nhà nước, khi quyền lực đó dựa trên pháp quyền (rule of law). Khi bản thân nhà nước lại không có luật lệ và coi thường quyền tự trị của cá nhân và các nhóm, xã hội dân sự vẫn có thể tồn tại (dù chỉ dưới hình thức sơ khai hay hoang tàn) nếu như các thành tố của nó vận hành theo một nhóm các nguyên tắc được chia sẻ (thí dụ như những [nguyên tắc] tránh sử dụng bạo lực và tôn trọng đa nguyên). Đây là điều kiện không thể tối giản trong chiều cạnh “dân sự” của nó.”
[10] Chính luận “Quyền lực của không quyền lực” của Vaclav Havel (1978)
[11] Bạn đọc có thể tham khảo trong series bài về Giải Nobel Hòa bình do Duy Tân Trẻ giới thiệu trên talawas.
[12]Trần Mạnh Hảo: Con người có quyền lực gì trong một xã hội phi dân sự?, talawas, Tháng 6, 2005.
[13]Ðỗ Minh Tuấn: Quyền lực con người trong xã hội dân sự; talawas, Tháng 6, 2005
[14]Trong lý thuyết chính trị học hiện đại, quyền lực con người trong xã hội dân sự được hiểu là quyền lực của những người không có quyền lực khi, bằng hành vi của mình, họ bộc lộ bản chất thực của hệ thống mà nhà cầm quyền luôn tìm cách che giấu, và bằng việc liên kết với nhau để hình thành một xã hội song song (với nền văn hóa song song, cơ sở kinh tế song song và hệ tư tưởng song song) họ làm xói mòn cơ sở quyền lực của nhà cầm quyền, hoặc bằng việc tự tổ chức lại, họ trở thành những chủ thể quyền lực có sức mặc cả với hệ thống.
[15]Ngay cả trong trường hợp đấu tranh chống tham nhũng (hay nói chính xác hơn là lên án tham nhũng) và đấu tranh bảo vệ lãnh thổ (đúng hơn là lên án Đảng Cộng sản nhượng đất cho Trung Quốc) thì các nhà bất đồng chính kiến cũng thường đi đến cùng của vấn đề và thường là dẫn tới những đòi hỏi dân chủ.
[16]Amnesty International trong thông cáo báo chí số 240, ra ngày 20 tháng 12 năm 2002 đã nói về Nguyễn Khắc Toàn như sau: “…ông được cho là đã phát tán tài liệu về các cuộc biểu tình tại Hà Nội và các thư thỉnh nguyện của nông dân lên án tình trạng bị chính quyền cướp đất ra cho các nhóm vận động Việt Nam ở nước ngoài. Rõ ràng là ông cũng giúp các đại diện của nông dân khi họ có mặt ở Hà Nội như thảo giúp các thỉnh nguyện thư gởi chính phủ.” (kiểu chữ nghiêng do tác giả thêm vào)
[17] Theo thông cáo báo chí ra ngày 1 tháng 6 năm 2005 của Amnesty International: “Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, 37 tuổi, một thương gia và một bác sĩ có tài, bị bắt ngày 27 tháng 3 năm 2002 vì đã viết và gửi các bài bộ áo về dân chủ và nhân quyền lên Internet. Tại phiên tòa xét xử ông vào ngày 18 tháng 6 năm 2003, ông bị kết tội “gián điệp” theo điều 80, bộ luật hình sự và bị kết án 13 năm tù giam cộng thêm 3 năm quản chế sau khi ra tù. Ông hiện đang bị giam giữ tại trại giam Yên Định, Thanh Hóa”
--------------------------------------------------------------------------------
Bài viết nguyên đăng tại trang web Talawas ngày 15-7
--------------------------------------------------------------------------------
Quang Duy, Canberra
Thưa quý vị, bạn Chu Thi, Hà Nội, đã nhìn rất rõ vấn đề. Số người đối lập với ĐCS đang càng ngày càng tăng và càng đấu tranh tích cực hơn. Nhu cầu liên kết mỗi ngày một tăng thêm. Đó là chưa kể khối quần chúng trầm lặng đang mong chờ ngày được nhập cuộc.
Để cuộc cách mạng này có thể diễn biến một cách hòa bình. Một cuộc bầu cử tự do sẽ phải được tổ chức. Các lực lượng đối lập (LLĐL) cần sửa sọan cho một bầu cử tự do. Đấu tranh để có bầu cử tự do chưa đủ. Các lực lượng đối lập (LLĐL) cần chỉ rõ cương lĩnh, chính sách của tổ chức mình. Muốn thế các LLĐL cần đi sát với mọi tầng lớp dân chúng, lắng nghe, góp nhặt và sửa sọan một mô hình phát triển quốc gia. Một mô hình cần tòan diện, cân đối và khả thi.
Mô hình này cần được triển khai để có thể thu phục được sự quan tâm và thuyết phục được sự đồng ý của đa số dân chúng, trong một xã hội đa nguyên như xã hội Việt Nam. Và một lộ trình rõ ràng để thực thi mô hình này. Song song các LLĐL cần xây dựng lại niềm tin vào tương lai của đất nước của dân tộc. Các LLĐL do đó cần phải tìm mọi cách để liên kết xây dựng cấu trúc và để chia sẻ trách nhiệm. Qua quá trình làm việc này các LLĐL sẽ nhìn thấy trước và rõ hơn sự thất bại của ĐCS. Lãnh đạo đối lập cần phải là một vị đã có quá trình đấu tranh, đặc biệt là đấu tranh trực diện với ĐCS. Tài đức trí vẹn tòan thêm với khả năng đối nội và đối ngọại.
Khi có được bầu cử tự do chúng ta sẽ có người lãnh đạo (hay minh chủ), chính phủ và quốc hôi do sự chọn lựa của tòan dân, trong và ngòai nước. Con đường đi tới phía trước của dân tộc sẽ do đa số quyết đinh. Người đại diện sẽ được sự chấp nhận thực sự của Công Đồng Thế Giới. Cũng là cơ sở cho việc thực hiện được việc hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Chu Thi, Hà Nội
Có vẻ như chúng ta đã dần dần vỡ ra một số vấn đề, sau khi đọc các bài của bạn Lê Đức, Berlin và bài của bạn Minh, TP. HCM, tôi có một số nhận xét như sau: - Hiện nay số người bất đồng chính kiến với Đảng cộng sản đã tăng lên khá nhiều trong mọi tầng lớp do sự mất uy tín của đảng trong việc lãnh đạo đất nước.
Quang Duy, Canberra
Bạn Chu Thi, Hà Nội, thân. Mình hòan tòan đồng ý với kết luận của bạn "VIỆT NAM phải tự tìm lấy con đường cho chính mình". Chọn con đường đúng không chưa đủ. Những gì người Úc có được hôm nay là cả một quá trình tích lũy kiến thức, tư bản, … hằng trăm năm, trải qua cả quá trình lịch sử của nước Úc.
Các điều kiện khác của Úc lại khác hẳn với VN ngày nay. Đó là chưa kể các mô hình, các lý thuyết thường dành cho giới khoa bản. Còn để áp dụng vào thực tiễn thì rất cần sự uyển chuyển để sao cho thích hợp với hòan cảnh và thời điểm của một quốc gia.
Mình lại cũng rất đồng ý với bạn hiện tại VN vẫn có bầu cử nhưng chẳng qua chỉ là một sự giả tạo. Đảng đã quyết định mọi việc cho dân. Ngay cả để xây dựng lại niềm tin cho mình đã là sự khó khăn.
Theo mình, lần bầu và ứng cử tự do đầu tiên sẽ là cách để dân mình chọn lựa mô hình phát triển hay những đại diện cho mình để thực hiện mô hình mà mình muốn chọn lựa. Để thực hiện được một cuộc bầu cử trong sạch và kết qủa đựợc chấp nhận, cuộc bầu cử cần được quan sát hay giám sát bởi quốc tế.
Thực sự việc tham khảo ý kiến của người dân là việc ông cha ta đã làm từ xa xưa. Hội Nghị Diên Hồng là một bằng chứng cụ thể. Hội Nghị Diên Hồng đã có trước khi Úc, Mỹ lập quốc. Tuy nhiên, không thể phủ nhận ngày nay tự do bầu và ứng cử là phương pháp hiệu quả và hữu hiệu nhất để tham khảo ý kiến của người dân. Mình rất mong sẽ được trao đổi nhiều ý kiến hơn với bạn.
CGO
Ông Lê Đức hỏi, tôi xin ráng trả lời. Đúng là trong thời chiến, VNCH chắc chắn là cũng có cảnh sát mật vụ hay bộ nhóm gì đó để rào đón CS Bắc Việt trà trộn khủng bố. Chuyện này tôi không phủ nhận.
Nhưng nếu ông Đức chú ý thì sẽ thấy tôi dùng "trong thời chiến" mà suy giải. Thời nay, VN trong thời chiến hay bình? Công an mật vụ có cũng không sao, nhưng dùng nó để trù dập, khủng bố người dân có khác chính kiến, đòi hỏi là vô dân chủ. Ông nói dân chủ là do các nước tây phương nhập vào, VN không có. Đúng ì là VN vốn có truyền thống vua chúa, cha truyền con nối. Và cho tới ngày hôm nay, hiện tượng đó cũng chưa có gì thay đổi trong bao năm cai trị của đảng CSVN. Đảng là trên hết, trên cả đất nước VN, cái này tôi không chấp nhận.
Theo tôi đảng chỉ là một bộ phận thay mặt dân mà làm việc chứ không phải là ông vua mà trị vì thiên hạ được.
Ông Đức còn hỏi là tại sao kẻ dã man, đại bịp mà thắng được thì đó cũng là câu trả lời rồi. Dã man tàn nhẫn, khủng bố ai không nghe theo. Đại bịp với nhân dân và nhân loại với những ngôn từ đẹp đẽ mà không được thực hành như đã hứa. Có một câu tôi tình cờ đọc được ở trong trang Tuổi Trẻ, "“Muốn tăng gia sản xuất phải làm thế nào? Không phải Chính phủ bỏ 10 -15 triệu để mở nhà máy, làm thế này thế khác; phải đem hết sức dân, tài dân, của dân… làm cho dân”.
Cái hay là CSVN đem khai thác hết sức dân, tài dân, của dân... mà dân thì vẫn hoàn nghèo, cán bộ CS thì cứ nhà lầu, xe lớn, con du học, chủ hãng xưởng.
Lê Đức, Berlin
Tôi đã theo dõi nhiều bài viết trên trang BBC, về các chủ đề, đặc biệt là trang nói về các nhà đối lập dân chủ trong nước cũng như hải ngoại, theo tôi cái kiếm khuyết to lớn của họ là lúc nào cũng đổ tội cho hoàn cảnh.. ví như công an cảnh sát, bộ máy đàn áp.. vv.Thử hỏi rằng dưới chế độ Pháp thuộc, và chế độ VNCH không có bộ máy đó ư? Chắc các chế độ n2y lấy toàn sư sãi ra làm mật vụ? Vì vậy, ngay cách đặt vấn đề tự bản thân nó đã không thể thuyết phục được thì làm sao nóicó người nghe?
Đã 50 năm có lẻ, những người chống CS giương cao ngọn cờ dân chủ, la lối CNCS là thứ chủ nghĩa ngọai lai, tôi cứ tự hỏi thế chế độ dân chủ theo kiểu phương tây là chủ nghiã dân tộc à? VN là nước phong kiến lâu đời, vì lâu đời nên lạc hậu, thời điểm trước năm 45, 98 % dân VN là thuần nông, vì vậy đầu óc phong kiến, cổ hủ lạc hậu là lẽ đương nhiên, vì vậy luận cứ Đa nguyên, đa đảng, chẳng qua cũng chỉ là đi sao chép ở nước ngoài, tự thân dân tộc chúng ta chưa hề sáng tạo ra nó. Việc áp dụng chủ nghĩa này hay học thuyết khác rõ ràng , tất cả chỉ là vay mượn. Lấy cái vay này để chê cái mượn khác là tự mình chê mình. Điều đó chỉ dẫn đến , thất bại này đến thất bại khác, mà lịch sử đã chứng minh.
Tôi thấy bài của ông Minh, HCM, VN là bài rất sáng suốt, bởi tính lịch sử đã xuyên xuốt minh chứng cho nhửng lời nhận định của ông. Có bao giờ trong tự mỗi người mệnh danh việc đấu tranh cho nền DCVN tự hỏi Vì sao CS dã man đại bịp mà họ thắng được Pháp Nhật,rồi Mỹ? Cốt lõi vấn đề ở đâu? Để kết thúc bài này, tôi xin được trích dẫn lời của HCM, để nhắc mấy vị dân chủ về chiến lược xuyên xuốt cho hành trình còn đầy gian khó của dân tộc: Dễ trăm lần , không dân cũng chịu Khó trăm lần dân liệu cũng xong !
Chu Thi, Hà Nội, Việt Nam
Gửi các bạn hải ngoại Tất cả những điều các bạn viết về nước này nước kia trên thế giới giàu có dân chủ hơn Việt Nam là điều chưa thể thuyết phục để người dân trong nước tin theo, đơn giản là các bạn vẫn chỉ nhìn thấy hiện tượng, lý luận chưa chặt chẽ và sắc sảo và cũng chưa hướng đến việc “giải quyết vấn đề”. Ngay cả bản thân tôi cũng ra nước ngoài, ở nước ngoài một thời gian và dù có suy nghĩ cầu tiến nhưng vẫn thấy mình thiếu hụt kiến thức về xã hội vô cùng.
Bây giờ mọi thứ thế giới đang đi đến chỗ nào tôi cũng chẳng rõ, phải chăng có thì chỉ là cái chuyên ngành hẹp tôi đang theo. Tôi chỉ nhìn thấy hiện tượng giống như “thầy bói xem voi”, tôi cũng tìm một vài quyển sách của những người Việt tại hải ngoại đọc, nhưng thật sự là số lượng quá ít, chất lượng không cao lắm. Tôi rất mong rằng càng ngày sẽ càng có nhiều bài viết và nhiều sách do những bạn hải ngoại dịch ra tiếng Việt để tôi có thể tiếp cận và học hỏi.
Những bài viết như tiểu luận số 1 và số 2 của Lâm Yến và Khải Minh trên talawas rất đáng chú ý, tôi cho là những tiểu luận như vậy có giá trị, có ý tưởng và nhìn được vấn đề tương đối toàn diện. Mong rằng những bài viết có chất lượng như vậy sẽ tiếp tục xuất hiện.
Bạn Nguyễn Quang Duy, Canbera, Úc viết “Như vậy, theo tôi tự do bầu và ứng cử là phương pháp để vận động tòan dân Úc tham gia quyết định mọi chính sách quốc gia. Các chính sách có ảnh hưởng đến vật chất, trí thức và tinh thần của mỗi người dân Úc.” Tôi xin thưa là ở Úc có thể làm được, nhưng ở Việt Nam thì khác hẳn. Ở gia đình nội nhà tôi, mỗi lần bầu cử chỉ có mình bà nội tôi đi bầu. Tôi hỏi bà: “bà đi bầu cử thế nào?”. Bà bảo :”người ta hướng dẫn hết, người ta bảo mình điền chỗ nào, mình sẽ phải điền chỗ đó, người ta kiểm tra phiếu trước khi bỏ vào thùng?”. Giả sử, bà tự bầu mà không có tác động của người khác thì sao, xin thưa là : trong quá trình kiếm phiếu, người ta làm ăn dối trá, thì dù mình có bầu tử tế cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì”.
Rất xin lỗi bạn Nguyễn Quang Duy, nhưng những lời khuyên như vậy chưa đủ, bạn cần đặt mình vào chính hoàn cảnh của người trong nước. Việt Nam sẽ phải cố gắng đi đến dân chủ, nhưng còn theo mô hình thế nào thì chưa thể vội vàng kết luận, nó có thể “copy” theo nước này, nước kia, xong không thể copy hoàn toàn được. Việt Nam phải tự tìm lấy còn đường riêng cho chính mình.
Minh, HCM, VN
Tôi rất tâm đắc với những ý kiến của tác giả. Những nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam hiện tại mới là các trí thức nửa vời, họ nhìn thấy thực tế, rút ra được một số điều, rồi vội vã xướng lên trên những diễn đàn đặc dành cho cũng những tri thức nửa vời đó. Kiến thức còn hạn hẹp, vậy mà không dành thời gian để nghiên cứu cho chỉn chu. Tôi đồ rằng họ không thực sự vì dân tộc mình, mà chỉ để tranh khôn, để thể hiện ta đây cũng biết này biết nọ, hơn người, trong khi đối tượng cần tác động tới là đông đảo quần chúng thì lại bị bỏ ngỏ. Làm sao họ có thể đoàn kết, thiết lập được sức mạnh dân tộc nếu tư tưởng “tiểu nông” đó vẫn ăn sâu trong họ? (Thực sự tôi muốn bao gồm cả những người đang miệt mài trên Diễn đàn của BBC).
Vấn đề Hồ Chí Minh được đưa ra bàn luận, phân tích từ rất lâu, ngay trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, dù nhà cầm quyền có đàn áp thế nào. Song tôi thấy họ chỉ cố moi móc hòng làm sụp đổ hình tượng HCM trong lòng dân. Nhưng để thay đổi chính kiến, tình cảm của một con người đâu có thể làm ngày một ngày hai, bằng nhưng câu chuyện giấm giúi, bởi những người hở ra là bị công an túm cổ!
Tôi không muốn đàm luận về động cơ của HCM, cũng như xuất phát điểm ông là người thế nào. Chỉ quả quyết rằng cả dân tộc Việt Nam, thậm chí rất nhiều dân tộc khác trên thế giới, chưa ai tạo được sự ảnh hưởng sâu rộng như vậy. Ông làm thơ rất giỏi vậy mà sẵn sàng viết những câu tưởng chừng “nhăng quậy”, bởi lẽ chúng bình dân, có thể đi vào lòng người, kích thích được tinh thần của những người dân ít học, thực tế. Ở địa vị đứng đầu một quốc gia, ông có thể tha hồ xa xỉ, ít nhất trong một quãng thời gian ngắn, nhưng vẫn cố giữ nếp sống bình dân, vì như thế ông mới duy trì được uy tín của mình. Bao nhiêu bậc đàn anh đi trước, cũng với khao khát làm nên lịch sử nhưng đâu có làm được. Hiểu biết, dũng cảm, kiên gan, bền chí, biết tận dụng thời thế, sức mạnh của toàn dân. Và tất nhiên muốn có “tiếng” thì phải hy sinh “miếng”. Chừng nào những nhà bất đồng chính kiến ở VN chí ít làm được vậy, may ra cơ hội mới đến với họ.
Hải Sơn
Ở Việt Nam không chỉ có 7 điều làm hạn chế hoạt động của phong trào dân chủ mà đến 70 điều. Những hạn chế này không xuất phát từ nội tại của phong trào dân chủ mà bắt nguồn từ quyền lực độc tài.
Sự cai trị hà khắc của ngày hôm qua để lại sự khiếp sợ cho ngày hôm nay. Những ai đã sống trong chế độ CS sẽ thấy có quá nhiều nỗi lo toan lẫn sợ hãi để đề phòng. Khi một người có tư tưởng khác đảng sẽ bị dập tắt ngay tức khắc bằng các biện pháp, không để lây lan ra xung quanh. Như vậy những người dân chủ làm sao truyền bá những quan điểm của mình?
Nền giáo dục nhồi sọ của CS đã sản sinh ra một thành phần giáo điều chỉ quen biện hộ theo những điều mình đã nhọc tâm. Con người sống trong xã hội CS không được làm những gì mà đảng chưa cho phép; từ cách thức làm ăn cho đến tự do ngôn luận.
Sự cai trị quá lâu và quá hà khắc của CS đã thiêu rụi sức phản kháng của một dân tộc có truyền thống quật cường. Thời trước muốn thăng quan tiến chức, muốn con cái sau này được trọng dụng thì phải kiếm cho được cái thẻ đảng viên. Đảng viên CS không hẳn là lý tưởng của mình nhưng mang lại cái lợi cho bản thân và gia đình. Vì vậy ai cũng muốn vào đảng. Đảng phải xét nét những người xin gia nhập, từ đó sinh ra cái mà người ta gọi là chủ nghĩa lý lịch.
Cứ diễn biến như vậy, từ một thứ chủ nghĩa ban đầu đã sản sinh ra hàng chục thứ chủ nghĩa quái đản khác. CS tạo ra sự khan hiếm vật chất để trói buộc con người. Miếng thịt, lon gạo còn quý huống hồ gì có đảng là có cả công danh. Những người CS nhân danh những điều cao đẹp nhưng lại tìm kiếm tham vọng cá nhân.
Vô hình xã hội CS tạo ra thói đạo đức giả. Người nông dân ít học bị đảng tuyên truyền làm tối mày tối mặt. Họ tỏ ra sùng bái đảng vì những chuyện thêu dệt hoang đường. Đảng tự cho là mình lý tưởng sáng ngời, là ngọn đèn soi cho nhân loại? Đường lối cai trị của CS không còn phù hợp với thời đại, nhưng những thế lực ngoan cố vẫn cố giữ lấy. Chỉ vì quyền lợi của bản thân và bè đảng mà thôi.
Thành phần tinh hoa trong thanh niên không nhiều; đa số vẫn cố tình né tránh những vấn đề sống còn của đất nước, không phải do họ u mê mà chính nỗi sợ hãi làm tê liệt ý thức của họ. Và hơn nữa là do món lợi mà đảng sẽ cho họ. Con người đứng trước sự lựa chọn là theo đảng để được tất cả, hoặc chống đảng để mất tất cả. Chọn đường nào? Không phải ai cũng có đủ dũng khí để chọn mất tất cả.
Đây chính là sự hy sinh lớn nhất của những người dân chủ. Một chính phủ không có những chính sách phát triển đất nước nhưng lại thẳng tay đàn áp những người đối lập; như vậy không có con đường sáng nào cho tương lai đất nước.
Phong trào dân chủ có những cản trở, nhưng đầu óc của những người dân chủ thì không ngừng ngơi nghỉ, còn tâm huyết thì đang sôi sùng sục. Con đường dân chủ ở Việt Nam còn dài nhưng không phải là không có bến.
Nguyễn Quang Duy Canberra, Úc Đại Lợi
Bạn Chu Thi, Hà Nội, thân. Do sống ở Úc, tôi đã nhận thấy rằng xã hội Úc là một xã hội không phân biệt giai cấp, chủng tộc, … người có con thơ, người già, ngừơi bênh tật, người thất nghiệp có an sinh xã hội. Phục vụ công cộng cho đại chúng, như y tế, giáo dục, thì đã có chính phủ lo. Theo tôi đây chính là là kết quả của một Hiến Pháp đựơc tôn trong và được thi hành trong vòng luật pháp. Người Úc rất ít quan tâm về chính trị, cụ thể là hai đảng lớn là đảng Tự Do và Lao Động, mỗi đảng chỉ có trên chục ngàn đảng viên. Tuy vậy, người Úc được quyền chọn lựa chính phủ từ đảng phái có các chính sách, kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường, quân sự, … thích hợp nhất trong mỗi hòan cảnh và thời điểm. Các đảng phái khác, giới truyền thông, các tổ chức dân sự hay phi chính phủ và công chúng dòm chừng việc thi hành các chính sách, việc chi tiêu… có hữu hiệu, có hiệu quả hay có gì sai sót không.
Như vậy, theo tôi tự do bầu và ứng cử là phương pháp để vận động tòan dân Úc tham gia quyết định mọi chính sách quốc gia. Các chính sách có ảnh hưởng đến vật chất, trí thức và tinh thần của mỗi người dân Úc. Nhờ đó từng bước Úc đã thực hiện được một xã hội công bằng và bác ái. Con người sống nhân bản, sống phù hợp và bảo tồn thiên nhiên. Đúng là xã hội trong giất mơ của người cộng sản nguyên thủy. Nhờ đó dân ít đất rộng, người Úc đã bảo vệ đựơc lãnh thổ của mình. Một điểm cần nhấn mạnh là họ đã mang trí, sức và vốn ra để thực hiện thay vì xương và máu của đồng loại (hay đồng bào).
Tự do bầu và ứng cử dẫn đến dân nước cùng giàu cùng mạnh, không phải là lý thuyết, nó là một thực tiễn đã được thực hành thành công ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đây là một điều kiện cần và đủ để dân mình từng bước thóat khỏi, vòng lẩn quẩn đói nghèo và lạc hậu hiện tại. Để từng bước hòa nhập lại với cộng đồng thế giới văn minh và thịnh vượng.Thực sự tự do bầu và ứng cử không có gì lạ với VN đất nước của chúng ta. Năm 1946, tòan dân Việt đã một lần đựơc tự do chọn lựa. Trước 1975, ở một mức độ nào đó dân miền Nam cũng đã được thực thi. Để có lại tự do bầu cử chúng ta không chỉ phải đòi hỏi những người cầm quyền hiện tại phải trả lại quyền tự quyết cho dân tộc. Mà khi có chúng ta còn phải vận động tòan dân ghi nhớ phương châm “ĐI ĐÔNG, BẦU ĐÚNG, CỬ XỨNG”.
Chu Thi, Hà Nội
Nhận xét của bạn Trần Trâm “Theo nhận xét của tôi thời Pháp thuộc ít ra người dân VN còn có được quyền ra báo, truyền bá tư tưởng đến quần chúng qua văn thơ, sách báo, và sự đi lại, liên lạc hội họp dễ dàng hơn bây giờ, vì nhà nước CSVN đã dày dạn kinh nghiệm trên những sơ hở của thực dân mà họ từng lợi dụng, cho nên những nhà dân chủ trong nước muốn quy tụ với nhau hoặc tiếp cận với đồng bào mình rất là khó. “Vỏ quýt dày sẽ có móng tay nhọn”. Dù nhà nước CSVN có rất nhiều biện pháp và dày dạn kinh nghiệm trong việc chống lại sự tuyên truyền của các nhà bất đồng chính kiến, tuy nhiên họ không thể “lấy tay che cả bầu trời”. Tôi nghĩ các nhà bất đồng chính kiến rất cần sự vận động, giúp đỡ của những người Việt tại hải ngoại trong việc tìm hiểu thông tin, tìm một mô hình phù hợp cho xã hội dân chủ tại Việt Nam cũng như tìm được phương pháp tuyên truyền thích hợp.
Bản thân ngay chính những nhà bất đồng chính kiến cũng nên hướng đến một mục tiêu chung, không nên quá lan man vào việc sát phạt nhau khi mọi thứ vẫn còn trong “trứng nước”. Đống thời, việc nói xấu quá nhiều của phía Hải ngoại về Việt Nam nên bớt đi, vì điều này sẽ gây phản cảm với người dân trong nước, dễ bị chính quyền trong nước chụp mũ “phản động”. Khi một mô hình phù hợp cho một xã hội dân chủ và những phương pháp tuyên truyền thích hợp đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, nó sẽ nhận được những sự phản biện sắc sảo của người dân trong và ngoài nước, tôi tin nó sẽ đủ thuyết phục người Việt Nam.
Chín Miên, Bình Dương
Trên thương trường, phía tranh giành mua bán gọi là đối thủ cạnh tranh, từ đây đã tạo cho thị trường hoạt động phong phú hơn, người tiêu dùng cảm thấy thoải mái hơn khi chọn cho mình một mặt hàng xứng đáng với đồng tiền bát gạo mà không phải bị gượng ép" nói chung là người tiêu dùng có quyền chọn cho mình một sản phẩm thật ưng ý.
Còn trên chính trường, phe phái đòi chia quyền lãnh đạo gọi là phe đối lập. Một xã hội muốn đi lên nhất thiết phải có phe phái đối lập. Những quốc gia có một đảng lãnh đạo duy nhất là những quốc gia không có nền dân chủ thực sự, những hoen ố do đảng độc quyền gây ra thường được bưng bít, bảo vệ, hầu tránh tai tiếng và những việc đó thường luôn đi kèm với thiệt hại tài sản quốc gia.
Ở VN hiện còn những lãnh vực kinh tế nhạy cảm đang được giữ thế độc quyền và những vụ tiêu cực thường chỉ có ở những ngành độc quyền này.
Đã chấp nhận nền kinh tế thị trường vào lãnh địa thì còn chần chờ gì nữa về một nền chính trị dân chủ một khi đã công nhận những tốt đẹp do nền kinh tế thị trường mang đến.
Kinh tế thị trường và nền chính trị dân chủ đa đảng là yếu tố "hai trong một" cho bất kỳ quốc gia nào có hướng phát triển đất nước ngày một giàu mạnh, xã hội văn minh.
Khẩu hiệu:dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra không bao giờ hiện thực trong một chế độ độc quyền lãnh đạo!
Nguyễn Nam, Sài Gòn
Không có một con đường phát triển nào sẵn có cho một dân tộc, nhất là dân tộc đó có quá nhiều uẩn khúc, chia rẽ và nghi kỵ như dân tộc VN. Lịch sử đã cho dân tộc VN một số phận khác thiên hạ, nên con đường đi đến dân chủ của VN cũng khác. Ở đây hoàn toàn không giáo điều, không bắt chước, không rập khuôn theo mô hình dân chủ của đất nước khác.
Chủ nghĩa CS không còn thích nghi với thời đại ngày nay, những người VN có lương tri và nhiệt huyết đang đi tìm một con đường phát triển cho đất nước, nhưng khó khăn một nỗi là chính quyền không chấp nhận những con người này. Họ dùng mọi thủ đoạn để đàn áp phong trào, điều này sẽ làm cho phong trào dân chủ không theo đúng lộ trình mà nó phải đi; cũng giống như người ta cố tình bẽ cong một thân cây đang phát triển vậy. Không một chính quyền nào tự nguyện giao lại quyền lực của mình cho lực lượng khác.
Hãy nhìn thực tế xã hội VN. Chúng ta sẽ thấy một sự xuống cấp về đạo đức và thối rữa về mặt tinh thần. Những giá trị về cuộc sống đã bị đảo lộn, vì vậy chẳng ai hiểu về dân chủ là cái gì cả. Con người ta sống để thoả mãn những giá trị về vật chất hơn là tinh thần, mà dân chủ là một khái niệm thuộc về tinh thần. Khi bàn đến tình hình dân chủ quốc gia người ta thường nhìn và hai tầng lớp: một là trung lưu hai là trí thức. Cả hai tầng lớp này ở VN đều là cơ hội và pha trộn một chút lưu manh. Những trí thức trung lưu đều ít nhìêu liên quan đến chính quyền; cuộc sống sung túc của họ hôm nay là nhờ cơ chế độc tài mang lại, do đó họ chẳng ngu gì thay đổi cơ chế đó để mất tất cả. Cuộc sống sẽ đào thải những gì không còn là của nó, những kẻ giáo điều rồi cũng thất bại với sự rập khuôn của mình. Chỉ có những người cách mạng thật sự mới thay đổi đất nước theo những suy tư hàng đêm của họ.
Trần Minh Thảo, Việt Nam
Đọc bài “Bảy hạn chế lớn của bất đồng chính kiến ở Việt nam” và nghe phỏng vấn của BBC với giáo sư Đoàn Viết Hoạt đang ở nước ngoài, là một dân thường, tôi có mấy ý kiến trao đổi:
Phải nói ngay,những nhà dân chủ đối lập trong nước đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của họ trong lịch sử dân tộc,trong tiến trình dân chủ hóa đất nước. Nhiệm vụ của họ là không để tắt ngọn lửa của lương tri và lẽ phải.
Tự Do, Bangkok
Hạn chế thứ nhất mà Abuza nhận xét từ cách đây 5 năm đã được chứng minh rõ ràng qua mâu thuẩn đã lên đến cực điểm, đang còn nóng hổi giữa ông Thanh Giang và ông Hoàng Tiến. Quý vị có thể đọc thư ông Tiến vạch mặt ông Giang (đề cao cá nhân, hai mặt,...) và ông Giang tố lại ông Tiến cùng ông Hoàng Minh Chính là ghen ăn tức ở trên trang talawas!
Theo tôi, tất cả các "nhà dân chủ" trong nước mà báo chí chí nước ngoài đang "tung hứng" sẽ không thể làm được gì ngoài chuyện cá nhân họ được chính quyền "chăm sóc" đặc biệt! Từng ở trong nuớc và giao tiếp (vỉa hè) nhiều, tôi biết giới trí thức trung niên - tầng lớp quan tâm và có hoài bão nhiều nhất (chứ không phải lớp hưu trí và thanh niên) - lại không đánh giá cao các ông Chính, Khuê, Giang, Quế Dương, Tiến, Quảng Độ,..
Tôi thì dự đoán rồi đây (chí ít là 5-7 năm nữa) lực lượng dân chủ sẽ phân hóa từ chính trong đảng CSVN, từ nhứng đảng viên trí thức và họ sẽ hành động có đường hướng, bản lĩnh, không cần dựa vào sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Trần Tâm
Thật ra tranh đấu dân quyền trong một hệ thống xã hội CS độc đoán thì các nhà dân chủ cũng không mấy bận tâm phải "thách thức hệ thống bằng một mô hình khác được minh biện kỹ lưỡng " vì hệ thống tự do dân chủ trên thế giới là một mô hình tương đối đã hoàn thiện, đã trải qua nhiều thử thách của nhiều xã hội khác nhau và trên thực tế đã đem lại nhiều kết quả tốt trong đời sống .
Theo nhận xét của tôi thời Pháp thuộc ít ra người dân VN còn có được quyền ra báo, truyền bá tư tưởng đến quần chúng qua văn thơ, sách báo, và sự đi lại, liên lạc hội họp dễ dàng hơn bây giờ, vì nhà nước CSVN đã dày dạn kinh nghiệm trên những sơ hở của thực dân mà họ từng lợi dụng, cho nên những nhà dân chủ trong nước muốn quy tụ với nhau hoặc tiếp cận với đồng bào mình rất là khó.
Những nhà dân chủ có sẵn địa vị, hoặc học vị thì may ra nước ngoài còn biết tới, chứ giới học sinh, sinh viên, hay nông dân, thợ thuyền đơn lẻ thì rất khó gây một tiếng vang. Cho nên những nhà dân chủ trong nước rất cần đến sự yểm trợ tinh thần của những người hải ngoại tiếp tay để giúp cho dân trí trong nước ý thức được những luận điệu ru ngủ của những người hưởng lợi từ thể chế.
Phong, Singapore
Nhà hỏng thì phải sửa hoặc đập đi xây lại. Nhưng nếu không có tiền, không biết cách xây nhà mới mà vẫn phá nhà cũ đi thì chỉ có nước ở ngòai trời. Chống đối chế độ cũng vậy. Nếu không biết cách xây dựng xã hội tốt hơn thì đừng chống, vừa hại thân mà vừa hại dân.
Dân Đen
Đây là một bài phân tích đưa ra nhiều chi tiết giúp những nhà tranh đấu dân chủ nhìn ra khuyết điểm của mình,"Họ là những người phê phán hệ thống, nhưng không phải là những người thách thức hệ thống bằng một mô hình khác được minh biện kỹ lưỡng", cần phải tìm cách hoàn thiện trong chiều hướng làm sao để tiếp cận, và chia sẻ những trăn trở của dân chúng.
Tôi rất tâm đắc với những nhận xét "Tuyệt đại đa số các nhà bất đồng chính kiến tập trung vào phê phán chính trị trực diện với hệ thống thượng tầng", "không quan tâm đến các biểu hiện sinh động của sinh hoạt dân chủ trong đời sống", "Cái chính trị mà dân chúng quan tâm là cái chính trị biểu hiện cụ thể trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày chứ không phải cái đúng sai của một học thuyết mà họ chẳng bao giờ quan tâm đến".
Theo tôi đây là lý do diễn đàn Việt Ngữ BBC được nhiều thành phần đọc giả theo dõi và tham gia không hẳn vì khả năng của BBC dồi dào hơn các website về xã hội khác, mà còn vì những chủ đề BBC đưa ra có tính cách thời sự liên quan ít nhiều đến chính trị của đời sống dân VN.
Hơn nữa trên diễn đàn BBC tôi thấy nhiều ý kiến tuy ngắn gọn, có thể đọc mau, không nhiều chi tiết làm mệt trí người đọc, điểm trúng từng "huyệt đạo" của chế độ là mục đích cải thiện dân trí. Lời sau cùng của tôi là cám ơn sự truyền đạt khúc chiết của tác giả Lâm Yến.