Skip to main contentAccess keys helpA-Z index
BBCVietnamese.com
chinese
russian
french
Other Languages
 
17 Tháng 9 2006 - Cập nhật 19h08 GMT
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
Cải Cách Môi Trường Giáo Dục
 

 
 
GS/TS Trần Văn Hiển
Tác giả phân tích các vấn đề hệ thống và đề xuất một số giải pháp
Bài phân tích môi trường giáo dục này là một trong hai bài phân tích để giúp người đọc hiểu rõ những nguyên nhân của sự yếu kém và một số phương cách thường dùng ở Hoa Kỳ để VN có thể chuyển đổi nền giáo dục hiện tại thành một nền giáo dục cao và đầy năng động. Từ đó VN có thể cạnh tranh với thế giới nhất là sau khi gia nhập WTO. Bài phân tích tới sẽ nói về “Cải Cách Đào Tạo Con Người”.

Hai thất bại chính của hệ thống giáo dục VN là:

Chất lượng đào tạo rất thấp đưa đến con người ít kiến thức; tự tin; sáng kiến; khả năng làm việc, cộng tác, thuyết phục, tổ chức, quản lý và lãnh đạo khi bước chân vào xã hội.

Gian lận nhiều trong thi cử đưa đến sự mất niềm tin vào sự trong sạch của nền giáo dục và giảm giá trị bằng cấp VN.

Về đường lối tổ chức và quản lý của Bộ:

1. VN chịu ảnh hưởng nhiều của những nền văn hóa giáo dục lỗi thời như Khổng Mạnh, Pháp và Liên Xô.

Giáo dục Khổng Mạnh là lối giáo dục từ chương và nhồi sọ, và dùng lốI thi cử từ chương là dụng cụ duy nhất để đánh giá con người trong sự thăng tiến trong xã hội. Trong khi đó giáo dục phương Tây giúp người học phát huy sự sáng tạo và đi tìm chân lý cho những nan đề trong khoa học, kinh tế, chính trị và xã hội. Giáo dục Khổng Mạnh khiếnTrung Quốc và Việt Nam dậm chân tại chỗ trong 1000 năm qua và bị phương Tây bỏ xa.

"Giáo dục Khổng Mạnh khiếnTrung Quốc và Việt Nam dậm chân tại chỗ trong 1000 năm qua"

Hệ thống tổ chức giáo dục theo lối Pháp trong đó các trường ít liên thông với nhau và đầy gò bó cho người học. Trường học quản lý theo hệ thống này rất ít thích nghi với sự thay đổi lớn trong xã hội.

Hệ thống bao cấp của Liên Xô giao cho Bộ vai trò lãnh đạo tuyệt đối trong quản lý giáo dục. Trước đổi mới, nền kinh tế VN sản xuất hàng hóa chất lượng rất kém, không thích hợp với người tiêu dùng, thiếu thốn trầm trọng, không cạnh tranh được với thế giới vì chính quyền quyết định tất cả mọi việc về sản xuất, nhân sự và giá cả. Hệ thống quản lý giáo dục VN là một hệ thống quản lý chỉ huy tuyệt đối hay bao cấp, và nền giáo dục cũng có cùng những căn bệnh bao cấp trầm trọng như nền kinh tế trước đây.

2. Những căn bệnh bao cấp rõ rệt của giáo dục gồm có:

Bộ tự quyết một chương trình học phổ thông cho cả nước và bao gồm luôn cả sách giáo khoa đưa đến chương trình có nhiều môn học không cần thiết, không hợp với nhiều địa phương và người học.

Bao giờ đại học Việt Nam có chất lượng quốc tế?

Phương pháp giảng dạy bắt buộc vẫn còn rất nặng tính cách Khổng Mạnh, không tận dụng được tài năng và sự sáng tạo của nhà giáo, và không phát huy được tính sáng tạo của người học.

Hệ thống giáo dục ít thích nghi, thiếu đa dạng và kém chất lượng nhưng ít ai được phép, được trao quyền, hay được khuyến khích để thay đổi.

Bộ ôm đồm quá nhiều việc nhỏ (micro-manage) và quên mất trách nhiệm to lớn của mình là tạo điều kiện thuận tiện nhất cho ngành giáo dục phát huy sự sáng tạo và khả năng con người ở trình độ cao.

3. Thiếu tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng cho ĐH đưa đến sinh viên ra trường “không ra thầy không ra thợ”. Các tổ chức công nghiệp thường dùng tiêu chuẩn quốc tế ISO 900x trong kiểm định chất lượng, trong khi đó ngành giáo dục VN chẳng dùng một tiêu chuẩn nào cả. Kết quả là thị trường trả lương rất thấp cho sinh viên vì chất lượng rất thấp.

4. Trách nhiệm đại học hạn chế và không rõ ràng: Xã hội Mỹ đòi hỏi rất nhiều từ ĐH. Mỗi ĐH phải nói rõ những trách nhiệm mình muốn đạt được trong 5-10 năm tới và cơ quan kiểm định chất lượng độc lập sẽ đánh giá sự thành công của ĐH dựa vào khả năng hoàn thành những trách nhiệm tự đặt ra này. Những trách nhiệm thường được đề cấp như: phát triển những ngành trọng điểm xã hội cần, cộng tác với doanh nghiệp địa phương, tỉ lệ sinh viên ra trường có việc làm, nghiên cứu, thi đua thể thao, v.v… Trong khi đó, ĐH VN không có nói rõ trách nhiệm của mình là gì, và xã hội cũng không có những cơ quan kiểm định chất lượng độc lập để làm nhiệm vụ quan trọng này.

5. Cung cầu không cân bằng về giáo dục đại học: Nền kinh tế VN là một nền kinh tế ở trình độ thấp, dùng đa số lao động tay chân, đang chuyển qua nền công nghiệp nhẹ dùng nhiều kỹ thuật mới nhập từ nước ngoài, và cần rất nhiều cán bộ kỹ thuật giỏi có khả năng Anh ngữ cao.

Hiện giờ ĐH VN đào tạo quá thừa sinh viên có bằng cử nhân với chất lượng rất thấp mà xã hội không dùng được, nhưng đào tạo rất ít cán bộ kỹ thuật giỏi có khả năng Anh ngữ cao mà nền kinh tế đang cần, và không có khả năng đào tạo con người có khả năng lãnh đạo ở tầm cỡ quốc tế.

Trong khi đó hệ thống giáo dục Hoa Kỳ rất chú trọng đến việc cân bằng giữa ba loại ĐH: a) cao đẳng đáp ứng nhu cầu kinh tế địa phương, b) ĐH tiểu bang thường đào tạo chuyên viên trình độ cao, và c) nhóm ĐH tầm cỡ Ivy League (nhóm ĐH lâu đời và giỏi nhất của Mỹ) như Havard, MIT, Standford, Yale, Princeton, University of California chuyên đào tạo lãnh đạo tầm cỡ thế giới ở mọi lãnh vực. Những trường tầm cỡ Ivy League này thu hút được người tài ở mọi nơi để làm lợi cho nền kinh tế và duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của Hoa Kỳ. Sự liên quan của ba nhóm ĐH này giống như một kim tự tháp với trường cao đẳng rất nhiều ở dưới, ĐH tiểu bang ít hơn ở giữa, và ĐH tầm cỡ Ivy League ít nhất ở trên đỉnh.

Đại học Princeton
"Hệ thống giáo dục Hoa Kỳ rất chú trọng đến việc cân bằng giữa ba loại đại học"

6. Mô hình đại học lỗi thời: Thế giới đang dùng mô hình ĐH tổng hợp trong đó một viện ĐH có nhiều ngành học và cấp nhiều bằng cấp từ cử nhân đến tiến sĩ. Mô hình này tiết kiệm được nhiều chi phí cố định, tạo môi trường thuận lợi cho sự cộng tác, và hỗ trợ giữa nhiều chuyên ngành khác nhau. Đa số ĐH VN nhỏ, theo mô hình của Pháp, một ĐH một ngành, và không cạnh tranh được với những ĐH tổng hợp của thế giới.

7. Chính sách chọn lãnh đạo của ĐH công hẹp hòi và dựa rất nhiều về tuổi đảng đưa đến một hệ thống giáo dục không thu hút được người tài thế giới vì những người này không là đảng viên Đảng CSVN.

GS/TS Paul Chu, một Hoa Kiều và khoa học gia nổi tiếng ở Hoa Kỳ, được mời làm hiệu trưởng Hồng Kông University of Science and Technology, một trong 60 ĐH giỏi nhất của thế giới, vì ĐH này dùng người tài ở mọi nơi trên thế giới và không phân biệt là họ có là đảng viên của đảng Cộng Sản Trung Quốc hay không. Trong khi đó, rất nhiều Việt Kiều tài giỏi như những giám đốc cao ở NASA (cơ quan quản lý không gian của Hoa Kỳ), không được mời giữ những chức vụ quan trọng trong ngành giáo dục VN như hiệu trưởng ĐH Bách Khoa Hà Nội vì họ không là đảng viên ĐCSVN.

Về chương trình học:

1. Chương trình học đơn dạng trong một nước đa dạng: VN là một nước đông dân và đa dạng với nhiều khác biệt giữa thôn quê thành thị, giữa ba miền Bắc Trung Nam, giữa những sắc tộc (Kinh, Hoa, Khmer, v.v…), giữa sự đòi hỏi khác nhau về nghề nghiệp hay địa vị trong xã hội, giữa khả năng tài chính, v.v... Bất cứ một chương trình nào Bộ đề ra chỉ hợp với một hay hai nhóm, và không hợp những nhóm còn lại.

2. Chương trình học với tính thích nghi thấp: Ở Mỹ, chương trình học trung và đại học ở mọi bang đều dùng hệ thống tín chỉ, một hệ thống trong đó chương trình học của một bằng được chia ra thành những môn học độc lập. Mỗi môn học, tùy theo khó hay dễ, được một chỉ số (hay tín chỉ) nhiều hay ít. Tùy theo khả năng và thời gian, người học có thể học và đỗ nhiều hay ít môn (hay tín chỉ) từng học kỳ. Người học được cấp bằng cử nhân khi đạt được 120 đến 130 tín chỉ, và những tín chỉ này có thể từ các ĐH khác nhau nhưng phải có cùng chất lượng.

Chương trình hiện tại của VN là theo năm và theo hệ thống Pháp (đỗ hay rớt cả năm), và rất gò bó cho người học. Sinh viên ĐH Mỹ có thể chuyển từ một ĐH này qua một ĐH khác, từ cao đẳng qua ĐH, từ tại chức (part time) qua chính quy (full time), từ ngành này qua ngành khác một cách khá dễ dàng. Người học có thể chọn và chuyển ngành học, nơi học nào thích hợp cho mình ở mọi lứa tuổi, và giúp họ thay đổi nhanh chóng để bắt kịp thay đổi trong xã hội.

Sự thiếu thích nghi và thiếu linh hoạt của ĐH VN đưa đến sự lãng phí lớn cho xã hội như người học mất tiền bạc và thời gian để học một ngành hay một trường không còn phù hợp với khả năng học thuật, sở thích, hoàn cảnh gia đình, khả năng tài chánh, xã hội hay nền kinh tế.

Về nhà giáo:

1. Lương nhà giáo rất thấp đưa đến nhiều tiêu cực về nhân sự như dạy hời hợt vài trăm em ở trường để dành công sức đi dạy thêm một vài chục em ở nhà.

2. Vai trò nhà giáo rất hạn chế: Hệ thống giáo dục dùng họ chủ yếu là để giảng dạy trong lớp, rất ít về những công việc quan trọng khác như nghiên cứu, soạn thảo chương trình, hướng dẫn học sinh, giúp học sinh trở thành những người năng động, biết sáng tạo, đạo đức, thành thật, v.v…

Hiện giờ, việc soạn thảo chương trình, sách giáo khoa ở VN vẫn là công việc của những chuyên viên thuộc Bộ và một số giáo sư, tiến sĩ ở một vài địa phương nào đó. Họ không phải là những đại diện cho nhà giáo của cả nước. Từ đó dẫn đến những chương trình học không phù hợp với thực tiển hay nhu cầu và trình độ của người học ở các địa phương.

3. Trình độ giáo sư đại học VN thường không đạt tiêu chuẩn quốc tế: Đại đa số giáo sư ĐH VN không đủ khả năng để được nhận vào làm giảng viên hay giáo sư của những trường có chất lượng quốc tế.

Những giải pháp tham khảo

Để nâng cấp môi trường giáo dục VN đồng thời xóa bỏ nạn gian lận thi cử có rất nhiều giải pháp đa dạng. Một số giải pháp đòi hỏi chi phí cao như cơ sở vật chất hay tăng lương cho nhà giáo là biện pháp lâu dài. Đổi lối quản lý của Bộ thì không tốn kém cho lắm và hoàn toàn có thể thực hiện sớm. Tuy nhiên những thay đổi này đòi sự thay đổi lớn về tư duy của lãnh đạo và sự tham gia rộng lớn của nhà giáo và nhiều thành phần khác trong xã hội.

Về đường lối tổ chức và quản lý của Bộ:

1. Thay đổi tư duy của lãnh đạo: Nền kinh tế VN phát triển rất mạnh trong 20 năm qua, vì lãnh đạo thay đổi tư duy từ nền kinh tế chỉ huy/bao cấp qua kinh tế thị trường. Lãnh đạo cần thay đổi tư duy trong giáo dục từ chỉ huy tuyệt đối qua tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, nhà giáo và địa phương phát huy khả năng con người ở trình độ cao và giúp nền kinh tế chuyển đổi nhanh chóng để có thể cạnh tranh với thế giới.

 Lãnh đạo cần thay đổi tư duy trong giáo dục từ chỉ huy tuyệt đối qua tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân
 

2. Tiêu chuẩn quốc tế rõ rệt về “thầy” hay “thợ”: ĐH công VN nhận vào những học sinh trung học ưu tú nhất của đất nước, nhưng khi ra trường thì chất lượng rất kém vì ĐH VN không áp dụng một tiêu chuẩn kiểm định chất lượng quốc tế nào.

Muốn được coi là có chất lượng, trường ở Mỹ phải có một hệ thống quản lý có khả năng làm được việc, một đội ngũ giáo sư/viên cơ hữu có bằng cấp đúng chuyên ngành, cộng tác với phụ huynh (cho trung học) hay doanh nghiệp địa phương (cho đại học) trong sự hoạch định ra chương trình học, tỉ lệ sinh viên ra trường có việc làm, nghiên cứu khoa học, thi đua thể thao, v.v… Hai dấu hiệu của trường ĐH VN có chất lượng cao trong tương lai là: a) cạnh tranh được với vài trường nổi tiếng của Singapore trong sự thu hút được thật nhiều sinh viên ngoại quốc đến du học tự túc tại VN và b) sinh viên VN ra trường có thu nhập cao từ 1.000 đến 5.000 đô la một tháng.

3. Tín chỉ hóa và liên thông hóa hệ thống giáo dục VN để giúp người dân ở mọi tầng lớp có thể chuyển ngành học cho thích hợp với sở thích cá nhân hay phù hợp với nhu cầu của xã hội, chuyển trường (từ cao đẳng qua đại học hay từ trường này qua một trường khác), chuyển địa phương … ở mọi tầng lớp và lứa tuổi một cách dễ dàng. Đại đa số các trường ĐH phải liên thông với nhau bằng cách chấp nhận tín chỉ học ở một trường khác với chất lượng tương tự. Tín chỉ hóa cũng nâng cao sự thích nghi hóa của chương trình học cho người dân và tăng chất lượng của các trường vì trường này biết trường kia dạy tốt hay xấu ra sao.

4. Địa phương hóa quản lý giáo dục: Ở Mỹ, một nước đông dân đa dạng với 50 bang, đại đa số thẩm quyền giáo dục thuộc về chính quyền tiểu bang và địa phương vì họ gần người dân và biết nhu cầu giáo dục địa phương ra sao. (Chính quyền liên bang như chính quyền trung ương, tiểu bang như tỉnh, và địa phương như thành phố, xã, huyện của VN.) Chính quyền liên bang không có vai trò quan trọng nào trong giáo dục, ngoại trừ trực tiếp trợ cấp học sinh nghèo, chọn tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục, và thuê ĐH làm nghiên cứu ở trình độ cao về nhiều lãnh vực.

Rất nhiều ĐH công thuộc tiểu bang của Mỹ đứng đầu thế giới về nhiều ngành và hơn hẳn ĐH quốc gia của nhiều nước. 500.000 người dân của tiểu bang Wyoming (ít hơn dân số của một tỉnh nhỏ của VN) tự thu thuế và tạo được một hệ thống giáo dục trình độ quốc tế từ cấp 1 đến tiến sĩ.

 Địa phương hóa quản lý giáo dục sẽ đưa đến một nền giáo dục đa dạng và thích hợp với người dân
 

Bởi vậy, nếu được Bộ trao quyền thì vài triệu người đầy tài năng ở Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ hay một nhóm tỉnh nhỏ cũng có thể tự trị và thành công trong giáo dục như người dân Wyoming. Địa phương hóa quản lý giáo dục sẽ đưa đến một nền giáo dục đa dạng và thích hợp với người dân và nền kinh tế địa phương hơn như vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ học nhiều về chăn nuôi trồng trọt; miền Tây Nguyên chú trọng nhiều về bảo vệ rừng, môi trường sinh thái, trồng cây công nghiệp; Sài Gòn và Hà Nội chú ý nhiều về dịch vụ và chương trình quốc tế, v.v... Từ đó địa phương có thể tận dụng học sinh/sinh viên ra trường ở mọi cấp ngay ở bậc trung học.

5. Bộ và xã hội cần dùng quá trình học lâu dài của học sinh trong mọi tuyển chọn: Đây là một phương thức được dùng ở Hoa Kỳ và rất khác xa lối học nhồi sọ “để thi” như phương pháp Khổng Mạnh.

Khi dạy một môn, thầy dựa vào nhiều yếu tố để cho điểm cuối khóa như đề án, nhiều kỳ thi giữa khóa, phát biểu trong lớp, nộp bài làm ở nhà mỗi ngày, kỳ thi cuối khóa, v.v.. Học sinh thi trung học tại trường và có thể thi nhiều lần trong hai năm cuối đến khi đỗ. Đại học Mỹ chỉ xét tuyển dựa vào điểm trung bình của trung học, thứ/hạng của học sinh trong trường, và điểm thi phụ trội về sự hiểu biết và khả năng lý luận tổng quát về toán và ngôn ngữ (môn SAT hay môn ACT). Học sinh có thể thi phụ trội nhiều lần.

Khi xin việc làm, công ty thường đòi học bạ và điểm trung bình trong suốt nhiều năm học. Học bạ, thứ/hạng của học sinh, điểm thi phụ trội phảI được gởI trực tiếp từ trường hay cơ quan thi để tránh nạn khai gian hay dùng bằng giả. Nếu hệ thống hành chính của các trường và cơ quan thi đủ minh bạch và xã hội dùng quá trình học lâu dài trong tuyển chọn hay trong sự đánh giá khả năng của học sinh, nạn gian lận trong thi cử hay nạn mua bằng cấp sẽ rất khó tồn tại.

6. Cân bằng cung cầu cho giáo dục đại học: VN nên dùng mô hình kim tự tháp trong sự chuyển đổi nền giáo dục ĐH với thật nhiều trường cao đẳng ở dưới phục vụ kinh tế địa phương, ĐH bốn năm ở giữa đào tạo chuyên viên ở trình độ cao, và ĐH tầm cỡ quốc tế đào tạo lãnh đạo cho mọi lãnh vực. Để thu hút người học vào trường cao đẳng, 3 loại ĐH này phải liên thông với nhau cho người học tiếp tục học lên nếu họ đủ khả năng về học lực và tài chính.

7. Áp dụng mô hình đại học tổng hợp: VN nên chuyển những ĐH lớn một ngành hiện giờ qua mô hình ĐH tổng hợp để có thể cạnh tranh với các ĐH trên thế giới. Đại Học Quốc Gia (ĐHQG) Hà Nội và TpHCM là hai đại học tổng hợp duy nhất của VN, và có nhiều tự do và độc lập từ Bộ. Tuy nhiên hai ĐH này còn đang ở giai đoạn triển khai, và không có áp dụng một tiêu chuẩn kiểm lượng chất lượng quốc tế nào. Bộ cần cho mọi ĐH quyền tự do tương tự như hai ĐHQG nêu trên.

8. Mở cửa giáo dục cho tư nhân và nước ngoài với chất lượng quốc tế: Luật Doanh Nghiệp đã cởi trói nền kinh tế, và khu vực kinh tế tư nhân và nước ngoài bành trướng từ con số không 20 năm trước đến 30%-40% tổng sản lượng quốc gia. Bộ phải cởi trói ngành giáo dục tương tự như sự cởi trói nền kinh tế, cho tư nhân, trường tư và nước ngoài với chất lượng quốc tế được tự do quản lý, định chương trình học, định học phí, tuyển sinh, v.v…

Cải tiến nhà giáo:

1. Lương cho nhà giáo phải cao đủ để họ không phải tham gia vào những hoạt động tiêu cực vì thiếu tiền, và có thì giờ nghiên cứu và trau dồi thêm kiến thức mới. Thêm vào đó cần cấm nhà giáo không được dạy thêm học sinh của trường mình để tránh sự lợi dụng chức vị của mình làm tiền phụ huynh và học sinh.

2. Nhà giáo phải được những tự do giáo dục căn bản thường có ở những nước tân tiến như được nghiên cứu, suy nghĩ, hội họp và phát biểu ý kiến về tất cả mọi đề tài mà luật không cấm.

3. Nâng cấp trình độ giáo sư ĐH lên tầm cỡ quốc tế và “trao quyền” cho họ để họ có thể nâng cấp ngành giáo dục VN. Một biện pháp là cấp học bổng cho nhà giáo đi du học hay tu nghiệp ở những nước tân tiến nói tiếng Anh như Mỹ, Anh, Canada, Úc, Singapore, và cần nhất là học những phương pháp phát huy sự sáng tạo của con người.

4. Thu hút trí thức Việt Kiều: Tập đoàn trí thức Việt Kiều với trình độ đại/cao học ở những nước có nền giáo dục cao như Hoa Kỳ, Úc và Canada lên đến 400.000 người. Đa số họ đang phục vụ ở những ĐH uy tín hay những công ty/tổ chức có tầm cỡ thế giới. VN nên tìm cách thu hút họ vào ngành giáo dục để giúp VN đốt giai đoạn trong sự đạt được chất lượng quốc tế.

Vai trò của những cơ quan chức năng khác:

1. Thu hút đầu tư nước ngoài vào kỹ nghệ cao/trí thức: Đại học chỉ có thể phát triển lành mạnh khi sinh viên ra trường có việc làm với thu nhập cao.

VN chưa tạo được những tổ chức kinh tế lớn với nhiều công việc dùng nhiều trí tuệ, chuyên môn cao với thu nhập cao.

VN cần thu hút được ít nhất 10 đến 20 đầu tư nước ngoài hàng năm với tầm cỡ Intel đầu tư ở Saigon High Tech Park. Nhiều nhà đầu tư như Intel sẽ cải thiện nền kinh tế và tạo được hai mục đích thực tiễn cho giáo dục: a) nhiệm vụ chính của giáo dục là đào tạo con người làm được việc cho xã hội, và b) người đi học để có được thu nhập cao.

2. Chống nạn tham nhũng trong xã hội bằng cách chính quyền ở mọi cấp và mọi nơi tạo nên một hệ thống tuyển dụng nhân sự minh bạch, công bằng với mọi người dân, dựa chính vào tài năng, và đồng lương phải tương ứng với hiệu quả công việc của họ.

Cần sa thải những nhân sự bất tài hay dư thừa và dùng tiền lương của họ tăng lương cho người làm được việc, và có những chương trình giúp họ tìm được việc làm mới hữu ích cho xã hội. Đây là một biện pháp mạnh nhưng có hiệu quả lâu dài, và chính quyền các nước Singapore, Mỹ, Nhật... đang dùng. Khi tham nhũng chung trong xã hội giảm bớt, ngành giáo dục cũng sẽ được hưởng lây.

Lời kết

Những nước dùng hệ thống quản lý giáo dục chỉ huy tuyệt đối thường có thu nhập đầu người rất thấp (Trung quốc, 1.416 đô la; Bắc Hàn, 370) khi so với những nước cùng sắc tộc (Singapore, 27.180; Hồng Kông, 25.006; Đài Loan, 14.857; Nam Hàn, 16.897) với mô hình giáo dục tín chỉ, đa dạng, kiểm định chất lượng độc lập và địa phương tự trị như Mỹ.

VN với thu nhập 610 đôla, cần tham gia nhóm giáo dục đa dạng để phát triển con người và kinh tế. VN rất thành công trong chuyển từ nền kinh tế chỉ huy/bao cấp qua kinh tế thị trường trong đó khả năng và sáng tạo của con người được tận dụng. VN sẽ có những thành công tương tự trong giáo dục nếu lãnh đạo chịu thay đổi tư duy.

Lãnh đạo của VN cần phải mạnh bạo trong sự cởi trói nền giáo dục từ lối quản lý bao cấp để ngành giáo dục có thể phát huy. Từ đó giúp người dân và đất nước chuyển đổi nền kinh tế từ lao động tay chân qua kỹ nghệ trí thức và tiến lên trên thế giới nhất là sau khi gia nhập WTO.

...............................................

Nguyên, Hà Nội
Thật là bài viết tuyệt vời. Không biết các nhà lãnh đạo trong bộ giáo dụ Việt Nam nghĩ sao nhưng tôi thấy bài viết rất hợp lý và nền giáo dục Viên Nam cần thay đổi.

Tôi hiện đang là sinh viên năm cuối của một trường đại học ở Việt Nam, tôi thấy với kiểu giáo dục mà môn học hay thi đều do bộ đề ra dưới sự lãnh đạo của Đảng thì thật là vô lý. Có rất nhiều môn học mà tôi thấy không hợp lý và rất chán nản khi học. Cách giáo dục này đã làm mất hẳn tính sáng tạo và sự say mê học hỏi trong con người tôi.

DG Hoa Kỳ
Cảm ơn Dr. đã có một bài phân tích cực kỳ hay và rõ ràng. Nói thật ra, ít ít, nhiều nhiều thì ở VN cũng có nhiều người, cả đội ngủ lãnh đạo cũng biết về thực trạng này. Cái chính là không rõ ràng và hệ thống như bài phân tích của Dr. Hiền.

Theo thông lệ, biết sai thì phải chữa sai. Nhưng vấn đề chính của VN hiện nay là những người lãnh đạo ở VN, được người Việt ở Hải ngoại gọi là CS ấy, không còn là cộng sản nữa.

Tôi nói không còn là cộng sản vì họ chỉ mang lốt CS nhưng làm việc thì chỉ mang tính cá nhân, không nghĩ cho dân cho nước. Nếu cải tổ thì rõ ràng quyền lợi của số người này sẽ mất dần. Người ta cũng biết rõ ràng rằng Giáo Dục chính là chìa khóa của sự phát triển dân tộc-, Nhất là GD Đại học.

Nếu Đại Học mà phát triển được thì người dân sẽ mở mang được nhiều điều và có nhiều nguy cơ cho chế độ. Vậy nên, theo suy đoán của tôi thì GD ở VN còn rất lâu nữa mới hòa nhâp, sánh vai được với GD các nước tiên tiến khác. Lúc đó, tình hình nước VN, đội ngũ lãnh đạo đã quá khác xa với hiện tại. Một điều nữa, bài viết này tôi nghĩ nếu được đăng trong nước thì sẽ đến được nhiều độc giả trong nước hơn, từ đó có thể gây sức ép từ phía dư luận lên các nhà lãnh đạo, có như vậy thì mới mong GD VN sớm đi vào quỉ đạo.

Vô Danh
Cháu là một học sinh cấp ba đang học tại tp.hcm. Phải nói rằng những sự việc như thế này, chúng cháu đã quá quen.

Vừa qua đọc bài báo về vụ chạy trường, cháu vui vui trong lòng khi thấy rằng vẫn còn có những giáo viên dám lên tiếng tố cáo tiêu cực trong nhà trường. Nói cho bọn bạn nghe, chúng nó cười cháu, phẩy tay: "Làm gì có chuyện đó mày ơi. Chắc mấy người đó "ăn" ko được nên mới mạnh miệng phanh phui thôi!". Nghe xong, cháu "á khẩu" luôn.

Bây giờ học sinh chúng cháu chẳng còn tin là vẫn còn những giáo viên có lương tâm như thế. Nói thẳng ra là mất hết lòng tin. Các chú các bác nghĩ sao?

TN
Cám ơn giáo sư Hiển đã có một bài phân tích xác đáng về hiện trạng giáo dục ở VN nhưng theo thiển ý tôi bài phân tích này đụng chạm đến lý thuyết CS cũng như đặc quyền, đặc lợi của cán bộ cho nên nó khó lòng thực thi.

Khi nào Đảng dám dẹp qua một bên cái đặc quyền, đặc lợi của mình thì may ra con cháu chúng ta mới có cơ hội nhận được một nền giáo dục như giáo sư đã đề xuất.

Joe
Thưa Giáo sư cùng tất cả các bạn. Bài phân tích của GS quá hay. Tôi đã đọc đi đọc lại, thậm chí còn in ra để suy ngẫm và cho đồng nghiệp đọc và đáng tiếc là phải chi nó đến được với tất cả các đồng chí trong BCHTƯ để các ông ấy thấy cần phải làm gì chứ kể cả ông Nguyễn Thiện Nhân cũng đành bó tay thôi.

Chúng tôi những công chức/nhà giáo lương gần 100 đô/tháng thì bạn biết rồi: chẳng ai nghe đâu! Trong suốt chương trình học mấy chục năm qua từ cấp 1 cho đến đại học thì các bạn biết rồi đấy, chủ yếu giáo dục tư tưởng là chính, còn kiến thức thật sự có bao nhiêu đâu!

Chúng tôi cũng có dịp tham quan ĐH RMIT ở quận 7 TP. HCM, thấy nó khác hẳn và giống như các trường ở ngoại quốc vậy: cơ sở đẳng cấp, chương trình học nhanh gọn thực chất-sau 2 năm rưỡi bạn có bằng cấp cử nhân. Trong chương trình VN phải mất 04 năm vì hơn một năm bạn phải học triết học MLN, LSĐ và v.v... Đất nước giờ đây còn rất nghèo khổ, không biết bao đời thì dân làng quê có thể thoát nghèo bằng học vấn làm sau mà có thể nuôi con ăn học suốt 04 năm trời nơi phố thị để lấy mảnh bằng mà thật sự nó chẳng nói lên được cái tri thức mà thời đại nầy đang cần.

Ta thường đổ lỗi cho bọn thực dân đế quốc nó hành hạ dân mình. Hỡi ơi! Xin xem lại đi: ta có giống chúng nó không?

Đinh, Hà Nội
Bài phân tích quá hay đấy! Sao anh Hiển không phải là một nhà giáo trong nước như anh Khoa có phải con cháu được nhờ không? Trong nước chẳng thấy ai lên tiếng cả!

An Phi, TP. HCM
Bài phân tích của GS/TS Trần văn Hiển rất cụ thể, chi tiết, phản ánh đúng thực trạng của nền giáo dục VN hiện nay. Các giải pháp do Giáo sư đưa ra cũng hợp lý.

Tuy nhiên, những người cầm quyền hiện nay tại VN có hiểu và có thực hiện được hay không mới là quan trọng. Theo tôi là rất khó, bởi vì, có người ví von, Bộ trưởng Nguyễn thiện Nhân hiện nay đang quét dọn "ngôi nhà giáo dục VN" đang bầy hầy, nhưng cũng có quan điểm cho rằng không cần phải làm thế vì ngôi nhà này đã ruỗng nát và sắp sập rồi, quét dọn cũng bằng thừa. Phá nó đi và xây nhà mới thì hoàn toàn không nằm trong khả năng của Bộ Trưởng Nguyễn thiện Nhân.

Nếu muốn cải tổ hiệu quả phải làm những việc sau đây : 1/- Rà soát, thanh lọc chọn lựa lại toàn bộ văn bằng, học vị tại VN, xem cái nào thật, cái nào giả, cái nào xứng đáng, cái nào hợp lệ để xác lập lại cái nền của tri thức VN rồi mới đến cải tổ giáo dục. Có làm nổi không?

2/- Trả lương cho toàn bộ thầy cô giáo với mức thù lao đủ sống theo mức sống của thị trường hiện nay (lương thật, chứ không phải lương "ví dụ" như chế độ tiền lương hiện nay tại VN ). Có làm nổi không?

3/- Trả lại giá trị đạo đức giáo dục thuần tuý (phi chính trị, phi kinh tế )cho nền giáo dục VN. Có làm nổi không? Không gỉai quyết được 3 vấn đề cơ bản trên thì có đi vào chi tiết cải tổ cũng là vô ích.

Lê Thanh Sơn
Theo Sơn muốn chấn hưng giáo dục thì phải kiến tạo một "con người" giáo dục hòan chỉnh: phải có xương và có thịt. Hiện nay khung giáo dục Việt nam từ tiểu học đến đại học đều rất hỗn lọan; khung xương không có lại thêm các chính sách giáo dục chắp vá thì chắc chắn giáo dục Việt nam chẳng đi đến đâu.

Ngay bộ trưởng giáo dục mới lúc đầu được báo chí đăng ì xèo nhưng nay rồi cũng đã tỏ ra cho thấy bất lực và ông chẳng có ý tưởng nào. Việc chạy theo lanh quanh việc chống tiêu cực mà trong tay chẳng có võ gì thì rồi cũng chẳng đi tới đâu.

Minh Nam, Hà Nội
Bài của GSTS Hiển nói khá đầy đủ nhưng trước đây nhiều người đã nói một phần hay nhiều phần và các việc phải làm mà GS Hiển đề cập. Theo tôi, có thời đời sống thầy giáo và thầy thuốc là thấp nhất ở VN. Kinh phí cho hai ngành này là bèo bọt nhất. Tuy nhiên, nhờ thành tích giáo dục (phổ cập) và y tế (màng lưới) mà VN được xếp vượt lên hàng chục bậc trong thang xếp loại toàn diện của quốc tế.

Điều đó nói lên, hai ngành này có công cải thiện bộ mặt của VN trước thế giới nhưng nhân viên của hai ngành này lại bị bạc đãi, bóc lột tàn tệ nhất. Đó là do di sản tai hại về tư tưởng mà đảng ta reo rắc: giáo dục và y tế là "phi sản xuất" (chỉ sản xuất thứ vô hình là sức khoẻ và trí tuệ, bị đảng coi thường. Đáng quý phải là sản xuất ra "của cải vật chất" cơ). Con đường tha hoá của hai ngành này bắt đầu từ đây.

Nay, kinh phí giáo dục đã khá hơn nhiều, nhưng lại vẫn quá bất cập đối với tham vọng của đảng, do vậy tình cảnh chung của giáo dục là nhếch nhác toàn diện, trong đó có lương giáo viên. Ngu như tôi mà còn hiểu răng lương giáo viên không nuôi nổi chính mình (điều này GS Hiển và nhiều người đã nói, bộ trưởng nào cũng đã thấy) mà bắt họ thực hiện các điều cao xa khác (như trong nội dung bài của GS Hiển) thì khác gì bóc lột họ? Liệu họ có làm nổi các tham vọng của các nhà cải cách giáo dục không? Nếu bạn là nhà chiến lược cho GD Việt nam thì bạn định bắt các thầy cô giáo làm gì?

 
 
Tên
Họ*
Thành phố
Nước
Điện thư
Điện thoại*
* không bắt buộc
Ý kiến
 
  
BBC có thể biên tập lại thư mà vẫn giữ đúng nội dung ý kiến và không bảo đảm đăng mọi thư gửi về.
 
CÁC BÀI LIÊN QUAN
TIN MỚI NHẤT
 
 
Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
 
   
 
BBC Copyright Logo ^^ Trở lại đầu
 
  Trang chủ| Thế giới | Việt Nam | Diễn đàn | Bóng đá |Văn hóa | Trang ảnh |
Chuyên đề| Learning English
 
  BBC News >> | BBC Sport >> | BBC Weather >> | BBC World Service >> | BBC Languages >>
 
  Ban Việt ngữ | Liên lạc | Giúp đỡ | Nguyên tắc thông tin cá nhân