![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() |
![]() |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Nga hay Mỹ cũng ̣đều dùng tiếng Việt
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Điểm ấn tượng nhất đối với tôi tại hội thảo Việt Nam học là hầu hết người nước ngoài đều nói tiếng Việt.
GS. Teresa Halik từ Ba lan giải thích phương pháp xây dựng hệ thống khái niệm mở bằng tiếng Việt cho đến khi tiếng Việt không còn đủ vốn từ mới 'để mô tả các khái niệm sau hậu hiện đại' mới thôi. GS Roland Jacques từ Pháp nói còn tương đối khó nghe – vì ít dùng tiếng Việt mà cũng có thể vì nghiên cứu vùng Phú Yên quá nhiều – giải thích nguồn gốc tiếng Việt với phóng viên đài tiếng nói Việt Nam. GS Vladimir Kolotov từ Nga, mà dân Việt Nam ở Saint Petersburg ̣hay gọi là anh Phúc dùng tiếng Việt trong sáng đưa ra các nhận định thời cuộc khiến chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tâm đắc đứng dậy bắt tay. Nhưng ấn tượng nhất là một cuộc – có thể tạm gọi là - hội thảo nhỏ không nằm ở hội trường, cũng không phải ở các tổ chuyên môn, mà là ở ngay quầy cà phê, trong khung cảnh những bức tranh minh họa văn hóa Việt Nam. Họ là một người Mỹ và một người Nga. Nếu câu chuyện diễn ra bằng tiếng Nga hay tiếng Anh thì cũng chẳng có gì lạ. Tôi cũng nghĩ vậy, đi lướt qua, gật đầu chào người quen, nhưng rồi lại phải quay đầu lại ngay, vì tai nghe rõ ràng họ đang bàn công việc bằng tiếng Việt. Tổng biên tập Peter Zinoman của tờ tạp chí Việt Nam học tiếng Anh ở California đề nghị GS Vladimir Mazyrin từ MGU của Nga viết bài. 'Nhiều và mông lung'
Điều đó khiến tôi nhớ lại một số băn khoăn được trình bày bên tổ thảo luận về lý thuyết và phương pháp cho cả ngành học mới này – quá nhiều và quá mông lung. Dù con số còn đang tranh cãi, nhưng ít nhất là hiện đang có trên 76 cơ sở có nội dung đào tạo về Việt Nam học, và thậm chí hình như còn có trường hợp đào tạo Việt Nam học ở bậc trung cấp. Một giảng viên cho biết trường của người này xếp ngành Việt Nam học vào khoa ngoại ngữ (?). Có thể thấy GS. Vũ Minh Giang rất cố gắng trong chuyện xây dựng và mở rộng một hệ thống cơ sở lý luận cho toàn ngành, dùng khái niệm mà hiện nay nhiều giáo trình đang nhắc đến là khu vực học. Nếu đúng vậy, thì Việt Nam học sẽ là chìa khóa khoa học cơ sở để mở cửa và định hướng các ngành khoa học ứng dụng, ví dụ như áp dụng Việt Nam học để làm sao thiết kế trung tâm hội nghị Mỹ Đình 2 trong tương lai gần gũi hơn với người đi xe ôm và xe hai bánh chẳng hạn. Để làm được điều đó, có lẽ trước hết các nhà khoa học Việt Nam phải có thêm kỹ năng biết tiếp nhận các nguồn tri thức mới, ví dụ như nâng cao trình độ dịch tiếng Anh chuyên môn (xã hội – kinh tế – chính trị và văn hóa) trong hội nghị chẳng hạn. Tuy vậy, chắc chắn vốn từ chuyên ngành của các học giả và dịch giả tham gia hội nghị sẽ tăng cường sau sự kiện này; mà từ ngữ lại sẽ chính là phương tiện để xây dựng hệ thống khái niệm lý thuyết. Nhìn các nhà khoa học quốc tế như Zinoman và Mazyrin trao đổi bằng tiếng Việt ở hội nghị, người ta có quyền hi vọng Việt Nam học có thể trở thành hệ thống lý thuyết chung cho nghiên cứu xã hội và nhân văn của cả vùng Đông Nam Á. |
CÁC BÀI LIÊN QUAN
![]() 09 Tháng 12, 2008 | Diễn đàn
![]() 06 Tháng 12, 2008 | Việt Nam
![]() 04 Tháng 12, 2008 | Việt Nam
![]() 04 Tháng 12, 2008 | Việt Nam
![]() 03 Tháng 12, 2008 | Việt Nam
![]() 20 Tháng 11, 2008 | Văn hóa
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||