50 năm kết thúc chiến tranh: Việt Nam trong cuộc chiến bị lãng quên ở Campuchia
Nguồn hình ảnh, Getty Images
- Tác giả, Tiến sĩ Ang Cheng Guan
- Vai trò, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore
- Tác giả, Joaquin Nguyễn Hòa
- Vai trò, Dịch
Việt Nam đóng một vai trò to lớn trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba, cuộc chiến dẫn tới sự sụp đổ của Khmer Đỏ và hình thành quyền lực của Hun Sen. Nhưng tại sao cuộc chiến này ít được nhắc tới tại Việt Nam cũng như trên bình diện quốc tế?
Phần lớn các công trình nghiên cứu về cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba được thực hiện bởi các nhà báo và các nhà khoa học chính trị, đặc biệt là các chuyên gia về quan hệ quốc tế quan tâm đến châu Á và/hoặc Đông Dương, trong thời gian cuộc xung đột đang diễn ra. Cũng giống như những tường thuật đương thời, các nghiên cứu ấy chủ yếu dựa trên các nguồn mở, báo chí, và rất hạn chế về nguồn tài liệu lưu trữ, nếu không muốn nói là hầu như không có.
Sự quan tâm và các bài viết về cuộc chiến giảm đi đáng kể từ những năm đầu thập niên 1990. So với sự phong phú của các công trình nghiên cứu về cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (còn được biết đến với tên gọi Chiến tranh Việt Nam) – vốn vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ – tài liệu về cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba rất ít, và mức độ gia tăng của chúng hầu như không tạo ra chuyển biến đáng kể nào. Nhà sử học Edwin Martini ghi nhận rằng, không giống như hai cuộc chiến Đông Dương kéo dài trước đó, giai đoạn "sau 1975" nói chung, hay cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba nói riêng, thường bị xem nhẹ và gạt ra ngoài lề như một ghi chú hoặc đoạn kết mà thôi. Mặc dù Martini đưa ra nhận xét đó từ năm 2009, nhưng cho đến nay, tình trạng của lĩnh vực nghiên cứu này vẫn không có gì thay đổi.
Tương tự như cách cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất (1946–1954) gắn liền với cuộc chiến lần thứ hai (1954–1975), giữa cuộc chiến thứ hai và cuộc chiến lần thứ ba cũng có một sự tiếp nối rõ rệt. Tia lửa châm ngòi cho "đám cháy" – tức cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba – bắt đầu bằng cuộc tấn công của Việt Nam vào Campuchia vào tháng 12 năm 1978, kéo theo cuộc chiến Việt-Trung vào tháng 2 năm 1979, có thể được truy nguyên từ giai đoạn cuối của Chiến tranh Việt Nam, với sự kiện Lon Nol lật đổ Sihanouk vào tháng 3 năm 1970. Tương tự như quan hệ Việt Nam–Campuchia, không cần phải quay ngược về thời kỳ tiền hiện đại để giải thích những khó khăn và thách thức trong quan hệ Việt Nam–Trung Quốc. Từ thập niên 1970, đặc biệt sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2 năm 1972, mối quan hệ này đã trở nên kém mặn nồng. Đến cuối cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, quan hệ giữa Việt Nam với cả hai quốc gia – Campuchia và Trung Quốc – đều đã trở nên mong manh, dễ đổ vỡ và bùng nổ.
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Không giống như sự kiện Sài Gòn sụp đổ – vốn được xem là dấu mốc kết thúc cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai – Hiệp định Hòa bình Paris, ký vào tháng 10 năm 1991 nhằm kết thúc cuộc chiến lần thứ ba, hầu như không được ghi nhớ hay tưởng niệm. Ngoại trừ một số người lợi dụng dịp này để chỉ trích chính quyền Campuchia và nhắc nhở các nhà lãnh đạo Campuchia về thất bại của họ trong việc thực thi thỏa thuận hòa bình như một nền tảng cho dân chủ tại quốc gia này, sự kiện đó phần lớn rơi vào quên lãng.
Để làm hài lòng Trung Quốc – quốc gia bảo trợ chính trị của mình – ông Hun Sen đã loại Trung Quốc khỏi câu chuyện lịch sử về cuộc chiến, tránh nhắc đến sự hậu thuẫn mà Bắc Kinh dành cho Khmer Đỏ. Kể từ sau khi loại bỏ đồng Thủ tướng Norodom Ranariddh vào tháng 7 năm 1997, ông Hun Sen đã tiến hành viết lại lịch sử cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba, qua đó xóa bỏ luôn hình ảnh mối đe dọa từ Khmer Đỏ. Sáu tháng sau cuộc đảo chính, Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia của ông Hun Sen, ông Chea Sim, đã kêu gọi người Campuchia xem ngày 7 tháng 1 – ngày giải phóng – như là "sinh nhật lần thứ hai" của quốc gia: ngày mà người Campuchia giành lại quyền làm chủ, tự do, hòa bình và niềm hy vọng cho tương lai.
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Trong cách diễn giải của Hun Sen, ông xem những người lính Việt Nam là những người đã hy sinh vì "sự sống còn của nhân dân và đất nước Campuchia". Vào năm 2019, chính quyền Hun Sen đánh dấu 20 năm lập lại hòa bình tại Campuchia bằng những ngày lễ bắt đầu từ tháng 12 năm 1998, thay vì tháng 10 năm 1991. Kể từ năm 2020, ngày ký Hiệp định Hòa bình Paris (23/10/1991), vốn từng được kỷ niệm hằng năm như là ngày kết thúc cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba, không còn được xem là ngày lễ công cộng tại Campuchia. Theo ông Hun Sen, Hiệp định Hòa bình Paris "đã không còn ý nghĩa gì nữa".
Hai phần ba dân số Campuchia hiện nay dưới 30 tuổi, tức là sinh ra sau khi Hiệp định Hòa bình Paris được ký kết, và không có trải nghiệm trực tiếp về cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba. Sự hiểu biết của họ chủ yếu dựa vào cách diễn giải của ông Hun Sen, người từng cho rằng "chỉ có kẻ chiến thắng mới có chính nghĩa và là người viết nên lịch sử".
Đối với những người từng sống sót qua chế độ Khmer Đỏ, quan điểm của họ về vai trò của người Việt Nam đã chuyển biến – từ lực lượng giải phóng thành những kẻ chiếm đóng. Phía Việt Nam cảm thấy thất vọng trước thực tế rằng người Campuchia không thể hiện lòng biết ơn, mà ngược lại, thái độ thù địch vẫn hiện diện ở khắp nơi. Khi nói đến "Ngày giải phóng" hay "Ngày chiến thắng", tại Campuchia không tồn tại một sự đồng thuận, và đây vẫn là một vấn đề chưa được giải quyết trong quan hệ giữa Campuchia và Việt Nam.
Theo Giáo sư Carlyle Thayer, cuộc chiến tranh Campuchia không để lại âm vang sâu rộng trong tâm thức người Việt như các cuộc kháng chiến chống Pháp hay chống Mỹ trước đó. Các cựu chiến binh Việt Nam từng tham chiến tại Campuchia cảm thấy mình đã bị lãng quên. Nhà báo Kevin Doyle thậm chí mô tả đây là "cuộc chiến Campuchia bị quên lãng của Việt Nam".
Cuộc chiến này vẫn mang tính nhạy cảm đối với Việt Nam, bởi vì việc cho phép bàn luận về nó có thể dẫn đến việc phơi bày những rạn nứt và đe dọa đến sự sống còn của Đảng, làm lộ ra các sai lầm của giới lãnh đạo trong quá khứ, cũng như vạch trần bản chất thực sự của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Vì vậy, cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh đều cố gắng xây dựng ký ức về cuộc chiến theo hướng có chọn lọc.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một ngày tưởng niệm chính thức dành cho cuộc chiến biên giới năm 1979 giữa Việt Nam và Trung Quốc. Theo ông Dương Danh Dy, Bí thư thứ nhất tại Đại sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh vào năm 1979, việc Việt Nam tránh bàn luận về cuộc chiến bắt nguồn từ mong muốn vun đắp mối quan hệ hữu nghị với quốc gia láng giềng. Theo cựu viên chức ngoại giao Nguyễn Ngọc Trường, không có một lãnh đạo cấp cao nào của Việt Nam từng phát biểu chính thức về việc tưởng niệm cuộc chiến này. Phải đến năm 2019, báo chí mới lần đầu tiên được phép công khai đưa tin về hoạt động tưởng niệm, chủ yếu do áp lực từ tình cảm mạnh mẽ trong công chúng đối với cuộc chiến.
Có thể còn hơn cả mục tiêu duy trì quan hệ hữu hảo song phương, theo học giả Tường Vũ, cuộc chiến này vẫn tiếp tục gây chia rẽ trong nội bộ giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay. Một nhóm đổ lỗi cho Lê Duẩn – người được biết đến là chống Trung Quốc – trong khi nhóm khác chỉ trích Đảng đã phạm sai lầm khi quá tin tưởng vào Bắc Kinh. Do đó, việc cho phép những tranh luận như vậy không chỉ đe dọa đoàn kết nội bộ và sự sống còn của Đảng, mà còn có nguy cơ phơi bày các sai lầm của giới lãnh đạo trong quá khứ.
Việc đưa cuộc chiến vào chương trình giáo dục có thể tạo nên sức ép từ công luận, buộc Đảng phải tạo khoảng cách với Trung Quốc và tiến gần hơn đến Hoa Kỳ – một viễn cảnh mà giới lãnh đạo hiện tại không mong muốn.
Phía Trung Quốc cũng giữ im lặng về vai trò của họ trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba. Vào ngày 17 tháng 2 năm 1979, khoảng 300.000 quân Trung Quốc tấn công Việt Nam nhằm trả đũa cuộc tấn công của Việt Nam vào Campuchia hai tháng trước đó. Zhang Jie (Trương Khiết), thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, giải thích rằng việc kỷ niệm cuộc chiến là điều nhạy cảm, và các quan chức Trung Quốc vẫn duy trì một góc nhìn bao quát hơn về mối quan hệ với Việt Nam.
Trong khi đó, Colin Koh, nhà nghiên cứu tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (Singapore), cho rằng lý do cũng có thể là vì Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã thể hiện sự yếu kém trong cuộc chiến đó. Theo Derek Grossman, chuyên gia phân tích cao cấp của Viện RAND, sự kín đáo của Bắc Kinh về ngày kỷ niệm cuộc chiến đã để lại những hậu quả không rõ ràng, ảnh hưởng đến các cuộc đối thoại trong khu vực với các quốc gia láng giềng châu Á về những xung đột trong quá khứ và hiện tại.
Không phải ai ở Việt Nam và Trung Quốc cũng cho rằng im lặng là cách tiếp cận tốt nhất đối với cuộc chiến. Hai học giả Qingfei Yin và Kosal Path nhận định: "Những ký ức chính thức về chiến tranh của Trung Quốc và Việt Nam chủ yếu phản ánh cùng một khuôn mẫu. Cách mà Trung Quốc và Việt Nam nhớ, quên đi, rồi lại nhớ về cuộc chiến Trung–Việt phản ánh không chỉ những thăng trầm trong quan hệ song phương, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội trong bối cảnh hai quốc gia đang thay đổi nhanh chóng. Cả hai chính quyền đều nỗ lực kiến tạo những ký ức được chọn lọc kỹ lưỡng về cuộc chiến này."
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Ngay cả khi việc giải quyết vấn đề Campuchia kéo dài hàng thập niên đã được đồng thuận xem như một trong những thành công ngoại giao lớn nhất của khối ASEAN kể từ khi tổ chức này được thành lập vào năm 1967, thì đó cũng chỉ là đánh giá và góc nhìn từ năm quốc gia thành viên sáng lập. Kể từ khi ASEAN mở rộng lên 10 thành viên vào năm 1999, việc kỷ niệm thành tựu này như một thắng lợi chung của toàn khối đã trở nên khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả thi, do những cách diễn giải khác biệt về vấn đề Campuchia giữa các thành viên cũ và mới.
Chúng ta có thể nhớ đến một sự kiện gây tranh cãi xảy ra vào ngày 31 tháng 5 năm 2019, khi Thủ tướng Lý Hiển Long của Singapore gửi thư chia buồn đến người đồng cấp Thái Lan, ông Prayut Chan-o-cha, về sự qua đời vào ngày 26 tháng 5 năm 2019 của cựu Thủ tướng kiêm Chủ tịch Hội đồng Cơ mật Thái Lan, Tướng Prem Tinsulanonda. Trong thư, ông Lý bày tỏ sự trân trọng đối với nỗ lực của nhóm năm nước ASEAN lúc bấy giờ, cũng như vai trò của ông Prem trong việc buộc Việt Nam rút khỏi Campuchia.
Bức thư chia buồn cũng được công bố trên trang Facebook chính thức của Thủ tướng Lý. Vốn dĩ đây chỉ là một thông lệ ngoại giao mang tính hình thức mà các quốc gia hữu hảo vẫn thường trao đổi, nhưng trong trường hợp này, nó đã dẫn đến một sự cố ngoại giao ngắn giữa Singapore với Campuchia và Việt Nam.
Không giống như cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, trong đó Hoa Kỳ đóng vai trò trung tâm, trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba, Hoa Kỳ chỉ giữ một vai trò ngoại vi. Do đó, không có gì khó hiểu khi giới học thuật Hoa Kỳ ít quan tâm đến cuộc chiến này.
Chính vì vậy, công trình nghiên cứu của tôi về giai đoạn này, Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba: Một lịch sử quốc tế (The Third Indochina War: An International History, Cambridge University Press, 2024), là một nỗ lực nhằm lấp đầy khoảng trống đó, với mục tiêu trình bày một cách nhìn khách quan về cuộc chiến. Tôi sử dụng nhiều nguồn tài liệu – cả mới và cũ – từ Việt Nam, Campuchia, Trung Quốc, Liên Xô, Hoa Kỳ, ASEAN, cũng như từ Anh và Úc. Việc tái dựng diễn biến cuộc chiến, từ góc độ lịch sử quốc tế, chú trọng đến các quyết định của những bên có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến xung đột.
Nghiên cứu này nhằm lý giải những nguyên nhân sâu xa và chồng chất dẫn đến cuộc chiến, bắt đầu từ cuộc tiến quân của Việt Nam vào Campuchia vào tháng 12 năm 1978, tiếp nối với quá trình diễn tiến của cuộc chiến từ năm 1979 đến khi Hiệp định Hòa bình Paris được ký kết vào năm 1991, rồi đến việc triển khai Cơ quan Tạm quyền Liên Hợp Quốc tại Campuchia (UNTAC) từ tháng 2 năm 1992 đến tháng 9 năm 1993, các sự kiện dẫn đến cuộc đảo chính tháng 7 năm 1997 lật đổ Thủ tướng thứ nhất, Hoàng thân Norodom Ranariddh, và cuối cùng là sự kiện Campuchia trở thành thành viên của ASEAN vào tháng 4 năm 1999.
Trong khi phần lớn các ghi chép về cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba kết thúc vào ngày ký Hiệp định Hòa bình Paris (23/10/1991), việc tiếp tục kéo dài câu chuyện đến năm 1999 cho chúng ta một bức tranh đầy đủ, sâu sắc và thỏa đáng hơn về toàn bộ tiến trình của cuộc xung đột. Như nhà sử học Diep Sophal thuộc Học viện Lịch sử Quân sự đã nhận định: "Hiệp định Hòa bình Paris không thực sự kết thúc cuộc nội chiến ở Campuchia (với Khmer Đỏ); cuộc chiến chỉ thực sự chấm dứt vào ngày 29 tháng 12 năm 1998." Năm 1998 cũng đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ mới trong chính trị Campuchia và trong khu vực, trong bối cảnh trật tự hậu Chiến tranh Lạnh.
Các nhà sử học có thể không đồng ý với tất cả các luận điểm trong nghiên cứu này, nhưng như Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhị từng nói – dù trong một bối cảnh khác – "...những ghi nhớ có thể đa dạng...". Tuy nhiên, như cố Giáo sư Ralph Smith, người được biết đến với công trình tiên phong Lịch sử quốc tế của Chiến tranh Việt Nam (An International History of the Vietnam War), từng viết: "Nhiệm vụ chính yếu của nhà sử học là cố gắng hiểu tại sao những việc ấy lại xảy ra."
- Tác giả Ang Cheng Guan là Phó Khoa tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam và là một học giả hàng đầu về lịch sử quốc tế Đông Nam Á. Ông là tác giả của The Third Indochina War: An International History (Cambridge University Press, 2025), cùng nhiều công trình khác về Việt Nam và châu Á trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Nghiên cứu của ông đóng vai trò như một nhịp cầu giữa các tài liệu lưu trữ và các diễn ngôn khu vực, nhằm làm sáng tỏ những chiều kích ít được khai thác trong lĩnh vực ngoại giao và xung đột hậu chiến.
Tin chính
BBC giới thiệu
Phổ biến
Nội dung không có