Di sản Nguyễn Phú Trọng: Thống nhất quyền lực về tay Đảng Cộng sản
Tháng 10/2012, ngày 15, công chúng coi truyền hình chứng kiến giọt nước mắt của ông Nguyễn Phú Trọng với giọng nói nghẹn ngào tại hội nghị trung ương 6 của Đảng.
"Để giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng và góp phần giữ gìn uy tín, hình ảnh thiêng liêng của Đảng và làm gương cho toàn Đảng, Bộ Chính trị đã thống nhất cao tự nhận và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương xem xét có hình thức kỷ luật khiển trách về trách nhiệm chính trị đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị."
"Giọt nước mắt rơi vào lịch sử" là cụm từ ví von được ông Lê Nam, đại biểu Quốc hội đoàn Thanh Hóa, dùng vào năm 2015 để nói về sự kiện này và được không ít báo chí sử dụng từ đó.
Trong cuộc tiếp xúc cử tri TP HCM vào ngày 17/10/2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nhắc lại hình ảnh này, nhấn mạnh đến việc Bộ Chính trị đã không kỷ luật "đồng chí X".
Kỷ luật Đảng, thể hiện qua việc kiểm điểm, và đề nghị kỷ luật "một đồng chí trong Bộ Chính trị" chiếm thời lượng khá dài của Hội nghị Trung ương 6, một hội nghị kéo dài đến 15 ngày, từ 1 đến 15/10/2012.
Kết quả của Hội nghị Trung ương 6 cũng đã thống nhất việc tái thành lập Ban Kinh tế Trung ương.
Đến cuối tháng 12/2012, Ban Nội chính được thành lập trở lại sau 10 năm bị giải thể dưới thời ông Nông Đức Mạnh.
Sự tái lập hai ban đảng này thể hiện hai điều: thứ nhất: giành tiếng nói về kinh tế từ Chính phủ về Đảng; và thứ hai: củng cố vai trò của Đảng trong công cuộc chống tham nhũng.
Đó là những sự kiện và thời điểm của chiến lược giành quyền lực của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trước nhân vật được coi là đối thủ chính trị của ông: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Trung ương Đảng khóa 10 (2006-2011) do ông Nông Đức Mạnh làm tổng bí thư. Tại khóa này, cả ông Trọng lẫn ông Dũng đều có chân trong Tứ Trụ: ông Nguyễn Tấn Dũng ngồi ghế thủ tướng; ông Nguyễn Phú Trọng giữ vai trò chủ tịch Quốc hội.
Ở khóa 11 (2011-2016), ông Trọng và ông Dũng tiếp tục ở lại Bộ Chính trị, nhưng vị thế đã thay đổi: trong khi ông Dũng tiếp tục làm thủ tướng thì ông Trọng trở thành tổng bí thư, vị trí lãnh đạo cao nhất của Đảng.
Đến khóa 12 (2016-2021), ông Trọng tiếp tục giữ chiếc ghế quyền lực của mình, còn ông Nguyễn Tấn Dũng phải rời chính trường từ đầu khóa.
Với việc đối thủ chính trị đã về hưu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục đẩy mạnh chiến dịch chống tham nhũng, đưa vào tù hàng loạt quan chức cấp cao, trong đó có nhiều người từng là thành viên trong chính phủ của ông Dũng.
Đến Đại hội 13, ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục giữ chức tổng bí thư nhiệm kỳ thứ 3 (2021-2026), một hành động trái với Điều lệ Đảng.
Ngày 19/7/2024, chính trường Việt Nam chứng kiến một cú sốc lớn. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời sau gần ba nhiệm kỳ đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ở trong nước, người ủng hộ và báo chí khóc thương và ca ngợi ông là một lãnh tụ liêm khiết, giản dị, suốt đời vì nước vì dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá ông là một nhà lãnh đạo tài đức vẹn toàn, một nhà lý luận lỗi lạc, một người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong khi đó, ở một bình diện rộng lớn và cởi mở hơn, di sản ông Trọng được xem xét và đánh giá đa chiều hơn.
Trong suốt hơn 13 năm nắm quyền lãnh đạo Đảng, ông Nguyễn Phú Trọng đã để lại không ít di sản, từ ngoại giao đến nội trị, từ củng cố quyền lực của Đảng đến chống tham nhũng.
Những di sản đó còn lại gì sau khi ông mất? Và người kế nhiệm ông, Đại tướng Công an Tô Lâm có tiếp tục kế thừa, phát huy hay bẻ đi hướng khác?
Nhân kỷ niệm một năm ngày mất của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, bài viết sẽ điểm lại di sản quyền lực mà ông đã thu về tay của Đảng và Tổng Bí thư Tô Lâm đã kế thừa như thế nào.
Thời kỳ giành quyền
Khi tiếp quản ghế Thủ tướng Chính phủ vào năm 2006, ông Nguyễn Tấn Dũng đã thừa hưởng một nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng, với động lực phát triển từ các khối kinh tế dân doanh và đầu tư nước ngoài (FDI).
Thị trường mở cửa với hội nhập kinh tế sâu rộng khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, vốn FDI đổ đến, cơ sở hạ tầng được đầu tư mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng hằng năm từ 7-8%.
Đáng chú ý, hàng loạt các tập đoàn nhà nước đã được ông Dũng thành lập để trở thành những quả đấm thép của đất nước.
Quyền lực kinh tế và cả quyền lực chính trị xoay quanh trục Chính phủ, làm lu mờ hình ảnh Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thời đó.
Quyền lực kinh tế vững chắc dường như tiếp sức cho ông Dũng trong việc củng cố quyền lực chính trị khi ông chú tâm hơn đến các địa phương cũng như các bộ ngành, hai khu vực chiếm tỷ lệ lớn trong Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Giáo sư Carl Thayer, nhà nghiên cứu và phân tích chính trị Việt Nam, từng nhận định với BBC News Tiếng Việt rằng thời ông Nguyễn Tấn Dũng, Văn phòng Thủ tướng, bao gồm cả cố vấn của thủ tướng, đã trở nên quyền lực hơn phe đảng về các khía cạnh chính sách, ngân sách và nhân lực.
"Quyền lực của thủ tướng mở rộng đến các tỉnh mà ông ấy kiểm soát ngân sách của họ và phe Đảng thất thế," Giáo sư Thayer nói.
Nhưng sự phát triển kinh tế cũng dẫn đến tình trạng tham nhũng tăng và nhiều công trình đầu tư công lớn đã để lại các hệ lụy.
Những điểm yếu này đã lọt vào con mắt của một nhà lãnh đạo chuyên ngành xây dựng Đảng khi đó đang giữ chức Chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Phú Trọng.
Nhà lý luận dày dạn kinh nghiệm của Đảng đã không cam tâm khi chứng kiến điều mà ông gọi là "sự thoái hóa" của nhiều cán bộ.
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Giáo sư Zachary Abuza từ Đại học National War College (Mỹ) nói với BBC News Tiếng Việt rằng mối quan ngại lớn của ông Trọng là sự trỗi dậy của cánh chính quyền và tầng lớp kỹ trị mà người tiêu biểu nhất là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
"Trong suốt 13 năm giữ cương vị tổng bí thư, ông Nguyễn Phú Trọng đã kiên quyết tái khẳng định ngôi vị quyền lực của Đảng Cộng sản. Ông ấy muốn Đảng phải luôn là bên có tiếng nói cuối cùng và có quyền phủ quyết. Nếu phải tóm gọn di sản chính trị của ông ấy thì đó chính là việc đưa Đảng quay trở lại vị trí trung tâm trong mọi quyết sách quốc gia," Tiến sĩ Abuza kết luận.
Và đó cũng là trung tâm của cuộc cạnh tranh giữa hai nhân vật chủ chốt: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Trong cuốn sách Không gì là không thể: Tiến trình hòa giải giữa Mỹ và Việt Nam, tác giả Ted Osius - Đại sứ Mỹ tại Việt Nam giai đoạn 2014-2017 - viết rằng ông Dũng là người "đứng trên chóp kim tự tháp chính trị của Việt Nam được một thập niên, là nhân vật quyền lực thực thụ tại Việt Nam sau thời Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Nhận định đó của Đại sứ Osius được đưa ra sau cuộc gặp của ông với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào đầu năm 2015.
Nhà quan sát chính trị Lê Hồng Hiệp cũng đánh giá sức ảnh hưởng của ông Dũng đến Ban chấp hành Trung ương là rất lớn.
Trong một bài viết trên trang East Asia Forum vào năm 2015, Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp đánh giá: "Ban Chấp hành Trung ương phần lớn là thành viên chính phủ và các lãnh đạo cấp cao từ các tỉnh thành, những người mà quá trình bổ nhiệm họ được quyết định hay bị ảnh hưởng lớn bởi ông Dũng."
Đối diện với một quyền lực đang lên của ông Nguyễn Tấn Dũng, khi ngồi lên chiếc ghế cao nhất của Đảng vào năm 2011, ông Nguyễn Phú Trọng đã dành nhiệm kỳ tổng bí thư đầu để giành lại quyền lực từ phía chính phủ.
Sóng ngầm giữa "cánh Chính phủ" và "cánh Đảng" được một số nhà quan sát gọi là cuộc cạnh tranh giữa "cung vua và phủ chúa".
Để củng cố quyền lực, ông Trọng đã tái lập hai ban Đảng về kinh tế và nội chính, cũng như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong mọi vấn đề khác.
Ông Trọng trở thành trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng từ năm 2013 và dưới sự điều hành của ông, các tổ chức Đảng như Ban Nội chính, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã phát huy quyền lực của Đảng bằng chiến dịch được biết đến với cái tên "Đốt lò".
Hàng loạt vụ án liên quan đến giới tài chính và dầu khí đã được Ban Chỉ đạo trực tiếp chỉ đạo, đốc thúc.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đóng vai trò tích cực trong việc siết lại kỷ cương và kỷ luật Đảng, nhất là các quan chức cấp cao sau thất bại trong việc "kỷ luật đồng chí X" vào tháng 10/2012.
Theo một nhà quan sát chính trị giấu tên từ Việt Nam, đây là những hiện tượng phản ánh xu hướng ông Nguyễn Phú Trọng muốn khôi phục lại quyền kiểm soát của phe Đảng trong tất cả cơ cấu khác trong hệ thống chính trị vốn bị xói mòn trong giai đoạn buộc phải mở cửa vì kinh tế.
Một trong những bước để khôi phục quyền lực cho Đảng và củng cố quyền lực của ông Trọng là tìm cách đẩy ông Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi chiếc ghế quyền lực.
Áp lực đổ lên đôi vai của ông Nguyễn Tấn Dũng ngày càng nặng khi thời gian trôi về những ngày chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ 12, sự kiện được tổ chức vào tháng 1/2016.
Trong Tứ Trụ khi đó, có ba người gồm ông Nguyễn Phú Trọng, ông Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có vẻ như cạnh tranh với nhau một suất "đặc biệt" để tái cử.
Nhưng Quyết định 244-QĐ/TW do chính ông Trọng ký vào năm 2014 về quy chế bầu cử trong Đảng đã cản trở sự nghiệp của ông Dũng.
Điều 13 của quyết định này ghi: "Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị."
Chính vì thế, cho dù trong Đại hội 12, ông Nguyễn Tấn Dũng được giới thiệu thêm để bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và dù nhận được nhiều để cử nhất, ông đã xin rút khỏi danh sách đề cử, đúng theo quy định trong Quyết định 244.
Đại sứ Ted Osius, trong cuốn sách của mình, nhận xét rằng "một sự xoay chuyển chính trị chấn động đã diễn ra, và một lần nữa Đảng, chứ không phải chính phủ, nắm quyền kiểm soát một cách vững chắc tại Việt Nam."
Đại hội 12 đã chính thức kết thúc sự nghiệp chính trị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đánh dấu cho màn thắng lợi chính trị của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng thời tái xác lập lại quyền lực của Đảng vốn bị xói mòn trong giai đoạn buộc phải mở cửa vì kinh tế.
Để củng cố và thể hiện quyền lực hơn, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, vào tháng 9/2016, đã tham gia vào Đảng ủy Công an Trung ương, cơ quan đóng vai trò quan trọng trong các vụ án tham nhũng lớn.
Hàng loạt các vụ án liên quan đến các nhân vật được cho là thân cận với ông Nguyễn Tấn Dũng đã được khởi tố.
Lần đầu tiên một ủy viên Bộ Chính trị đã bị khởi tố, bắt giam, đó là trường hợp ông Đinh La Thăng, cựu Bí thư Thành ủy TP HCM, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, mở đường cho hàng loạt vụ án và kỷ luật liên quan đến các quan chức cấp cao khác với phương châm "không có vùng cấm".
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13 diễn ra vào tháng 1/2021, ông Trọng, khi đó 76 tuổi, đã trở thành "một trường hợp đặc biệt" để tiếp tục làm tổng bí thư nhiệm kỳ thứ 3 liên tiếp, dù điều này trái với Điều lệ Đảng.
Ông Tô Lâm và di sản Nguyễn Phú Trọng
Một trong những hệ quả trong quá trình tái khẳng định quyền lực của Đảng là làm suy yếu vai trò của chính phủ, dẫn đến sự kìm hãm đà phát triển kinh tế, theo đánh giá của một số chuyên gia.
Theo lý giải của Giáo sư Abuza, quyền lực của Đảng Cộng sản đã bao trùm lên mọi quyết sách khi là lực lượng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện.
"Một nhà tư tưởng thực thụ", "một tín đồ chân chính của Đảng", "một nhà quan liêu cộng sản điển hình" - đó là những từ ngữ mà giới quan sát trong và ngoài nước dành cho ông Trọng.
Giáo sư Abuza nhận định rằng trong thời gian cầm quyền, dường như ông Trọng đã phải vật lộn với các nền tảng lý luận, một hệ tư tưởng Marxist–Leninist truyền thống mà ông được đào tạo và nuôi dưỡng nhưng phải đối mặt với thực tiễn của một nền kinh tế thị trường đang vận hành đầy năng động, đòi hỏi những thay đổi.
"Ông ấy không phải là người thực dụng hay linh hoạt. Ngược lại, ông sẵn sàng hãm phanh tăng trưởng kinh tế để đổi lấy việc giữ vững quyền kiểm soát của Đảng," Giáo sư Abuza nói.
Nhưng chính việc ưu tiên củng cố quyền lực của Đảng hơn phát triển kinh tế cũng đã để lại nhiều hệ quả mà người kế nhiệm là ông Tô Lâm phải tìm cách giải quyết.
Cuộc cách mạng tinh gọn đã được thực hiện với một tốc độ chóng mặt để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình rõ ràng đặt ưu tiên phát triển kinh tế và giải quyết những tồn tại về điểm nghẽn thể chế.
Điều đó cũng cho thấy sự khác nhau trong cách tiếp cận của hai nhà lãnh đạo. Trong khi ông Nguyễn Phú Trọng đề cao sự trong sạch của Đảng bằng chiến dịch đốt lò, ông Tô Lâm bảo vệ tính chính danh của Đảng bằng phát triển kinh tế.
Mối quan tâm hàng đầu của ông Trọng là sự sống còn của Đảng và ông trở nên nhạy cảm với bất kỳ điều gì được cho là xói mòn lòng tin trong dân chúng về hình tượng Đảng tiên phong.
Do đó, ông Trọng không ngần ngại khai hỏa một chiến dịch chống tham nhũng mạnh mẽ và "lửa" trong lò của ông không những thiêu rụi sự nghiệp chính trị của những quan chức chính quyền địa phương và trung ương, các giám đốc điều hành doanh nghiệp quốc doanh mà còn lan sang cả những tướng lĩnh, sĩ quan công an và quân đội - đúng theo lời ông nói "không vùng cấm, không ngoại lệ".
"Điều quan trọng hơn cả với ông Trọng vẫn là sự kiểm soát và củng cố hình tượng của Đảng. Ông ưu tiên ít tham nhũng hơn dù có thể tăng trưởng chậm.
"Khác với người tiền nhiệm, ông Tô Lâm xem tính chính danh của Đảng đến từ tăng trưởng kinh tế nhanh và việc nâng cao mức sống của người dân để bước vào kỷ nguyên vươn mình. Ông ấy hoàn toàn không phải là một người mang nặng tư tưởng hệ như ông Trọng," Giáo sư Abuza nhận định.
Trong khi đó, giáo sư khoa học chính trị Edmund Malesky từ Đại học Duke (Mỹ) nhận định với BBC rằng ông Tô Lâm đã được hưởng lợi từ di sản quyền lực mạnh mẽ của Đảng mà ông Nguyễn Phú Trọng để lại.
Theo đó, ông Tô Lâm không còn phải đối mặt nhiều với các thách thức tiềm ẩn, trong đó có các đối thủ chính trị, các phe nhóm hay những lực lượng có quan điểm chính sách khác biệt.
Chính vì thế, việc thúc đẩy các chính sách – chẳng hạn như những cải cách quy mô lớn mà ông Tô Lâm đang theo đuổi – đã trở nên dễ dàng hơn.
"Tôi cho rằng khả năng thúc đẩy mọi chính sách theo cách đó sẽ là điều không thể xảy ra cách đây 20 năm, khi mà trong chính phủ Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều nhóm cạnh tranh quyền lực và các tầm nhìn khác nhau về tương lai đất nước," Giáo sư Edmund Malesky nói.
Giáo sư Abuza nói rằng ông Tô Lâm đã tận dụng di sản quyền lực Đảng mà ông Trọng để lại làm công cụ để đạt được mục tiêu của mình là phát triển kinh tế.
"Đối với Tô Lâm, Đảng chỉ đơn thuần là công cụ để thực hiện những mục tiêu của mình ví dụ như sáp nhập tỉnh thành, tinh gọn bộ máy. Tất cả những điều này đòi hỏi một mức độ ủng hộ chính trị rất lớn - ông không thể làm được nếu không có sự hậu thuẫn đầy đủ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng."
Một trong những sự kiện đáng chú ý là sự xuất hiện trở lại của cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sau khi ông Tô Lâm lên nắm quyền.
Kể từ khi rời chính trường vào tháng 4/2016 với lời chúc "ráng làm người tử tế", ông Dũng gần như rút lui khỏi ánh đèn sân khấu chính trị, và chứng kiến rất nhiều cấp dưới thân cận của mình bị kỷ luật, bị khởi tố, bắt giam trong các chiến dịch đốt lò.
Tuy nhiên, khi ông Tô Lâm lên nắm quyền, tần suất xuất hiện của chính trị gia kỳ cựu này dày đặc hơn.
Ông Dũng còn được Tổng Bí thư Tô Lâm trao Huân chương Sao Vàng - huân chương cao quý nhất của Việt Nam tặng cho các cá nhân có công lao to lớn, đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Giáo sư Abuza đánh giá rằng ông Tô Lâm rõ ràng đang tận dụng vốn chính trị từ một người được coi là "Bố già miền Nam" - cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
"Ông Tô Lâm đang rất cẩn trọng trong việc xây dựng liên minh với khối miền Nam. Ông ấy cần ông Nguyễn Tấn Dũng để đảm bảo sự hậu thuẫn từ miền Nam cho các cải cách chính trị, việc tái cơ cấu bộ máy chính phủ và các kế hoạch kinh tế của ông."
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, vai trò của các bậc lão thành rất quan trọng, và theo ông Abuza, ông Tô Lâm đã tranh thủ sự ủng hộ của một chính trị gia kỳ cựu như ông Dũng. Đổi lại đó là sự thăng tiến của hai người con ông Dũng là ông Nguyễn Thanh Nghị, Phó bí thư thường trực TP HCM, và Nguyễn Minh Triết, hiện đang là Bí thư trung ương Đoàn, Chủ tịch Hội sinh viên Việt Nam.
Tin chính
BBC giới thiệu
Phổ biến
Nội dung không có